PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập II A 6)
(PHÂN ĐOẠN 6, TRUYỆN KÍ THỨ 7)
Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm
TRẦN XUÂN AN
CƯỠNG ƯỚC “HỮU NGHỊ”
VÀ CƯỠNG ƯỚC THƯƠNG MẠI,
GIÁP TUẤT 1874
Truyện kí thứ bảy
(phân đoạn 6)
14
Trong thời đoạn bi kịch đó, đúng như quan Thương bạc Nguyễn Hữu Lập tâu lên vua Tự Đức, ngoài vấn đề giáo dân Nghệ – Tĩnh tổ chức báo thù, nạn giặc biển người Tàu ở Bắc Kì vẫn rất căng thẳng. Lại thêm bọn giặc Cờ vàng Hoàng [Sùng] Anh và thổ phỉ, quan quân chưa đủ sức tiêu diệt hết ở vùng thượng du biên giới phía Bắc (195)!
Tháng hai Giáp tuất (1874), Rheinart vẫn đang rập rình tàu chiến, lăm le đạn pháo ở Hà Nội. Tháng sáu nguyệt lịch, tên giặc biển Khách Công tấn công Hải Dương với bốn mươi chiếc tàu thuyền, đánh phá các phủ, huyện, vây bức tỉnh thành (196)! Phái viên Pháp La Đăng (Dujardin) không thực tâm đánh giúp theo “hoà” ước Nhâm tuất 1862 (“hoà” ước Giáp tuất 1874 chưa có hiệu lực), mà chỉ quan tâm đến mỏ than, tính chuyện bóc lột khoáng sản (196)! Tôn Thất Thuyết và Lê Bá Thận phải từ hai tuyến, tiến ra Hải Dương cứu viện. Cơ mật viện thương thuyết với Pháp, Pháp vẫn lưng chừng, trong thâm tâm vẫn muốn nuôi dưỡng bọn hải tặc, hải phỉ này để làm sức ép với triều đình Đại Nam. Chỉ có một vài lần Pháp yểm trợ tổng đốc Hải – Yên Phạm Ý trong việc tiễu phỉ này (197)!
Ngay cả giải quyết vấn đề bọn tay sai do Françis Garnier phong làm quan chức cũng rất nan giải. Mùa đông năm ngoái, Quý dậu, phó sứ khâm sai đại thần Nguyễn Văn Tường xử trí bọn Việt gian, “tả đạo” làm tay sai cho Pháp bằng cách vẫn cho một vài tên tiếp tục làm với chức trách nhỏ để chúng “yên lòng phản trắc” (198). Bấy giờ, vua cho là khéo. Nay phải chấn chỉnh lại, vua Tự Đức không cho chúng tiếp tục làm quan của triều đình, lại trách Nguyễn Văn Tường lúc ấy xử trí vội. Trần Đình Túc xin vua tha cho chúng, đặc biệt là năm tên: Phạm Quang Diệu, Nguyễn Quý Cát, Lê Văn Tốn, Nguyễn Tích, Đỗ Đình Huyên. Quan họ Trần tâu rằng chúng đã thú tội và có cố gắng chuộc tội. Vua vẫn không đồng ý. Cơ mật viện (gồm Trần Tiễn Thành, Nguyễn Tư Giản, Phạm Phú Thứ, lúc này Nguyễn Văn Tường đã vào Gia Định) xin vua cứ sử dụng vì bọn ấy có lắm đồ đệ, sợ sẽ thêm rắc rối nếu vội sa thải chúng. Về sau, lãnh sự Pháp Kê La Đích (Kergaradec) lại bênh vực chúng. Dẫu thế, chẳng bao lâu chúng lại can án hoặc tự nghỉ việc (198).
Đó là một giai đoạn cực kì khó khăn và rất phức tạp! Ở đấy, cái đốn mạt, đê tiện, phi nhân nghĩa lại có dịp để bộc lộ một cách trắng trợn!
Nhưng đó còn là một giai đoạn bi kịch!
Phải chăng trong sự bế tắc chung của Đất nước và do bị thâm thủng tiền công ngoài ý muốn (mặc dù đã bồi thường gần đủ), bang biện Bắc – Thái Đặng Huy Trứ đã tự sát, vào cuối tháng bảy Giáp tuất (1874), với lời trăn trối xin đừng đưa thi hài về quê quán Bác Vọng, Thừa Thiên (199)?
Chính giai đoạn lịch sử này cũng đã tạo ra nhiều tình huống bi kịch và sản sinh ra không ít những con người mang tâm trạng bi kịch với những cách hành xử bi kịch!
Cộng vào nỗi đau bi kịch lịch sử ở Đàng Ngoài, còn có thêm nỗi đau xé ruột, nỗi đau dậy lên trong niềm phẫn nộ, khi Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tư Giản (ba đại thần Cơ mật viện – Thương bạc) tâu xin nhà vua giải quyết vấn đề người Nam Kì chạy trốn ra vùng tị địa tại Bình Thuận, Khánh Hoà (200). Trước đây, bốn mươi mốt người dân Nam Kì khốn khổ, gồm người Kinh lẫn người thổ, bị thực dân Pháp sai đi làm việc nặng nhọc dưới những ngọn roi da và dùi cui của chúng, họ đã thoát ra, tìm đến với bang biện khâm phái, điển nông sứ Phan Trung. Giữa tháng tám Giáp tuất (1874), tướng Pháp Krantz nghi ngờ triều đình Đại Nam vẫn tiếp tục huấn luyện người Nam Kì để lại đưa về Nam Kì tổ chức nổi dậy, khởi nghĩa, nên y gửi thư ra kinh đô Huế, đề nghị phải bắt giải giao cho y. Viện – Bạc tâu xin vua thoả hiệp với Krantz, thông tư cho tỉnh Bình Thuận yết nã ngay bốn mươi mốt người dân ấy, sau đó viết thư trả lời cho Krantz khỏi hiềm nghi! Vua Tự Đức đành đoạn đến tàn nhẫn nghe theo (200).
“Sách lược thoả hiệp tạm thời” với giặc xâm lược quả là quá đau xót, đến mức nhân dân đã căm phẫn kết án triều đình nhà Nguyễn “mãi quốc, khí dân” (bán nước, bỏ dân)! Bấy giờ, Nguyễn Văn Tường vẫn còn phải ở tại Gia Định (đến cuối tháng tám nguyệt lịch ông mới về đến Huế). Ông hết sức đau lòng, đã đấu tranh với Krantz, nhưng vẫn không thể can thiệp được, bởi điều khoản IX của “hoà” ước Nhâm tuất 1862 và điều khoản XVIII của “hoà” ước Giáp tuất 1874 ghi rõ, gần như giống hệt nhau: “Phàm có giặc ở địa phận nước [Nam Kì thuộc] Đại Pháp, như có phạm các tội làm loạn và trộm cướp, mà trốn [ra] địa hạt nước Đại Nam [từ Bình Thuận đến Cao Bằng], được quan nước Đại Pháp [thông] tư cho quan nước Đại Nam biết, thì quan nước Đại Nam tức khắc phải hết sức dò bắt, giao cho quan nước Đại Pháp xét xử”! Đó là nỗi đau một khi non sông đất nước vốn liền một dải từ Cà Mau đến Nam Quan, bỗng bị cưỡng ước chia cắt thành hai nước khác nhau: Nam Kì thuộc Pháp và Vương quốc Đại Nam thuộc triều đình Huế!
15
CƯỠNG ƯỚC THƯƠNG MẠI GIÁP TUẤT 1874 (201)
“Điều ước thông thương (cộng hai mươi chín [29] điều) đã làm xong.
Ước rằng:
Nay vua nước Đại Nam và vua nước Pháp nhân muốn giữ vững lời thề hai nước kết giao với nhau và muốn cho tiện lợi dễ dàng về việc thông thương để rộng đường giàu thịnh hai nước, nên vua nước Đại Nam đặc cách phái Hình bộ thượng thư, Kì Vĩ bá, chánh sứ Nguyễn Văn Tường, Lại bộ thị lang, phó sứ Nguyễn Tăng Doãn đều sung chức giảng định thương ước toàn quyền đại thần.
Vua nước Pháp đặc cách phái khâm sai, tổng thống Nam Kì thuỷ lục quân dân, kiêm thống Đại Thanh, Nhật Bản lưỡng quốc ngoại dương chư binh thuyền, đại nguyên soái Kha Răng Du Ly Pha Lang Sa Ê Mi Ly [Krantz], khâm thưởng đại hạng thưởng công kim bội tinh, khâm sung giảng định thương ước toàn quyền đại thần.
Hai bên đã đem sắc chiếu được làm toàn quyền công đồng so sánh, tra xét, đều được thoả đáng, liền đem bàn lập điều khoản kê khai ở sau:
Khoản 1: Chiểu theo khoản thứ XI ở tờ hoà ước mới năm nay (ngày hai mươi bảy [27] tháng giêng [01] Nam, ngày 15 tháng 03 Tây), đã phân biệt nghị định: Vua nước Đại Nam chuẩn cho mở cửa biển Ninh Hải tỉnh Hải Dương ngược lên sông Nhĩ Hà suốt đến địa giới tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh và phố Hà Nội cùng cửa biển Thị Nại tỉnh Bình Định, cho thuyền buôn các nước ngoài, không cứ nước nào, hiệu cờ sắc gì, đều được đi lại mua bán ở các cửa biển ấy.
Khoản 2: Phàm các cửa biển đã chuẩn cho khai thương ở trong điều ước nên chiểu theo lệ hàng hoá được chở ra, chở vào, trị giá cứ một trăm (100) phần thì lấy ra năm (05) phần, đem nộp thuế quan. Khi đã nộp thuế xong, thì các hàng hoá đều được thông thương mua bán, thong dong tự tiện. Duy muối trắng nên chiểu giá cứ một trăm (100) phần, lấy ra mười (10) phần, để nộp thuế. Còn súng ống, khí giới, thuốc đạn, tất cả các loại về quân khí, đều không cho mua bán, không được vận chở ra vào. Lại mua bán thuốc phiện, nên chiểu theo lệ riêng của nước Đại Nam đã định. Còn như gạo, người buôn thường được tuỳ tiện chở vào cửa biển, vào phố, về thuế chỉ chiểu một trăm (100) phần, phải nộp năm (05) phần. Nếu tải ra khỏi cửa biển thì phải có giấy tờ rõ ràng của triều đình nước Đại Nam tạm chuẩn cho, và [thông] tư cho quan khâm sứ nước Pháp ở kinh [đô] biết, mới được tải ra; và thuế gạo tải ra phải chiểu một trăm (100) phần thu lấy mười (10) phần. Lại như vận chở tơ sống và gỗ thiết thường được vào cửa biển; nếu ra khỏi cửa biển, tất phải [được] các xã thôn sở tại nhận nộp thuế thổ sản xong, và phải đợi triều đình nước Đại Nam đặt mua các hạng ấy đủ dùng, việc xong, mới được chở ra; còn thuế lệ chiểu theo các hàng hoá nhận nộp năm phần trăm (5/100). Hai hạng ấy đến khi ấy nước Đại Nam cho chở ra hoặc không cho chở ra, đều nên trước khi ấy một (01) tháng, [thông] tư cho quan khâm sứ nước Pháp ở kinh biết. Trong đó, các hạng cấm, trừ các thứ khí giới, thuốc đạn, súng ống, đồ dùng về việc quân, không có triều đình nước Đại Nam cho chở thì không được chở; không kể ngoài ra những hàng hoá khác có lệ cấm đều cho tải từ nước ngoài đi qua suốt đến Vân Nam và chở từ Vân Nam đi qua ra biển, thì không cùng can thiệp. Duy triều đình nước Đại Nam tuỳ tiện được nghị định quy luật điều lệ để ngăn ngừa hoặc có kẻ đem hạng cấp [:cấm (?)] ấy giả mạo, đem lên bộ trà trộn vào trong địa hạt nước mình. Phàm các hàng hoá được tải đi qua, hoặc từ biển vào tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh hoặc từ tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh mà ra biển, thì mỗi khi tải đến địa hạt nước Đại Nam, chiểu nộp thuế quan một lần thôi. Phàm hàng hoá vào cửa biển đã theo thuế lệ chiểu nộp thuế quan, mà hoặc có từ tỉnh này tải đến tỉnh khác, từ phố này tải đến phố khác, chuyển đi mua bán với nhau, đều không được định thêm số thuế lệ nào khác.
Lại muốn cho hai nước khỏi sinh dị nghị, cho nên lần này phải nghĩ nhất định. Phàm thuyền buôn nước Đại Thanh chở hàng hoá vào, ra, về hạng cấm cùng thuế quan, phải chiểu theo hàng hoá được tải ra, vào của các hiệu thuyền Tây và Tân thế giới (tức hai tờ ước gọi là Cờ các nước ngoài) theo nộp như nhau. Duy thuế phải nộp của các thuyền buôn nước Đại Thanh và nước Đại Nam là bao nhiêu, đều thuộc về quan ti thuế quan nước Đại Nam thu riêng, cất riêng; muốn chi tiêu việc gì, chỉ quan nước Đại Nam tính liệu riêng mà thôi. Còn như hàng cấm thì thuyền buôn nước Đại Nam cũng giống như các nước.
Khoản 3: Phàm thuyền buôn ra vào cửa biển hai lần đều có chở hàng hoá thì phải cứ trọng tải mỗi tôn [:tấn] nộp tiền thuế đèn chỉ đường và thuế bỏ neo là ba (03) đồng cân bạc. Nếu có thuyền nào lúc vào không có hàng hoá, mà lúc ra chở hàng hoá hoặc lúc vào có hàng hoá, mà lúc ra không có hàng hoá, phải cứ trong tải mỗi tôn nộp bạc thuế một (01) đồng cân năm (05) phân. Nếu ra vào hai lần đều không chở hàng hoá thì miễn cho tiền thuế. Lại như sức thuyền chở được hai mươi (20) phần mà hàng tải trong thuyền chưa tới một phần, giá trị mỗi tôn [:tấn] lại không tới năm (05) quan tiền thì cũng coi như thuyền ra vào đều không chở hàng hoá, miễn tiền thuế tất cả.
Khoản 4: Phàm hàng hoá từ Gia Định chở đến cửa biển nước Đại Nam hiện cho cho mở mang buôn bán, hoặc muốn đi thẳng sông Nhĩ Hà, chở đến địa giới Vân Nam, lại từ địa giới tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh, hoặc từ các cửa biển nước Đại Nam hiện cho mở mang buôn bán mà chở đến Gia Định, về hàng hoá nên chiểu theo cùng với thuế lệ đã định về hàng hoá từ xứ khác chở đến cửa biển mở mang buôn bán ở nước Đại Nam hoặc lên thẳng Vân Nam và từ Vân Nam hoặc từ cửa biển mở mang buôn bán ở nước Đại Nam chở đến xứ khác, [thì] chước thu nửa phần mà thôi.
Lại muốn lấp hẳn tệ dối trá mà phải thực có bằng cứ, cho nên phàm thuyền nào hàng hoá từ Gia Định chở đi, phải có quan tấn thủ nước Pháp và quan lãnh sự nước Đại Nam ở Gia Định cấp giấy kí tên đóng ấn làm bằng, mới được chước giảm. Thuyền nào từ địa giới Vân Nam hoặc từ các cửa biển hiện cho khai thương ở nước Đại Nam mà chở đến Gia Định thì ti thuế quan có thể tuỳ tiện bắt mượn người bảo lãnh số thuế nửa phần đã nói trên. Nếu không có người bảo lãnh hoặc có bảo lãnh mà không đủ làm bằng, cũng có thể bắt phải nộp cả số thuế nửa phần được chước giảm ấy. Đợi có bằng cứ đích thực, sẽ trả lại sau.
Khoản 5: Hai tỉnh Bình Thuận và Biên Hoà do [:theo] đường bộ đi lại buôn bán thì từ trước đến nay hạng thuế nào có thu hay không, nay nên vẫn như cũ, không nên thêm bớt, thay đổi. Đợi sau khi thương ước cùng giao cho nhau, hạn trong một năm, sẽ nghĩ định điều riêng về buôn bán đường bộ, phụ theo điều ước ấy. Tuy vậy có người ở địa hạt nước Đại Nam mua ngựa đem đến tỉnh Biên Hoà để bán, thì tất phải chiểu theo thuế lệ hiện hành, không nên gia nặng thêm.
Khoản 6: Muốn được chiểu liệu đánh thu thuế quan và khỏi để khách buôn các nước ngoài trở ngạnh [:ngáng trở] với quan nước Đại Nam, cho nên triều đình nước Pháp giúp triều đình nước Đại Nam lựa chọn viên quan nước Pháp, nhưng phải theo quan Bộ Hộ nước Đại Nam chỉ bảo, đủ để theo giúp việc thuế quan. Triều đình nước Pháp cũng giúp triều đình nước Đại Nam tìm cách tuần phòng ngoài biển, cốt được nghiêm mật, để giữ cho dân buôn. Phàm trước khi chưa bồi xong số bạc bồi phí tổn còn thiếu của nước Y Pha Nho, thì không được thuê người nước Tây nào khác không phải là người nước Pháp mà quan khâm sứ hoặc quan lãnh sự có ý không bằng lòng cho làm việc thuế quan. Đợi khi nào bồi xong số bạc thiếu của nước Y Pha Nho và quan nước Đại Nam đã am hiểu việc đánh thuế, thu thuế, không phải phiền cậy người nước Pháp làm giúp, thì đến khi ấy hai nước sẽ hội nghị nên làm thế nào, tuỳ tiện thay đổi.
Khoản 7: Phàm ti thuế quan ở các cửa biển đã mở ra cho các người nước ngoài thông thương đều thuộc quan nước Đại Nam, một viên đóng ở cửa Ninh Hải để trông coi, lại có một viên người nước Pháp giúp nước Đại Nam giữ việc thuế quan của người buôn nước Tây cũng cùng đóng ở cửa biển ấy. Phàm luật lệ thuế buôn ở các đồn thuế quan ấy, do hai viên ấy cộng đồng làm cho thoả đáng. Các người Tây theo làm việc ở các đồn thuế quan đều do quan nước Pháp ấy cai quản cả. Viên ấy cũng có thể thời thường gửi thư cho quan lãnh sự và quan khâm sứ Pháp để bày tỏ các việc thuế quan và thông thương. Còn hai viên quản lí và thống nhiếp ấy, đến khi việc thu thuế, nếu có khoản nào phải tư trình quan Bộ Hộ nước Đại Nam xét bảo, thì đều phải cùng kí tên [thông] tư đi. Trong đó, nếu có khoản nào hai viên ấy ý kiến không hợp nhau thì đều cứ đem ý kiến của mình tư [trình] cho quan Bộ Hộ xét xử.
Khoản 8: Phàm người nước Pháp theo giúp nước Đại Nam, nên được phẩm trật, lương bổng và cùng với quan Đại Nam đi lại lễ tết, nên ở thứ bậc nào, sẽ đợi hai nước hội đồng bàn định.
Khoản 9: Phàm sổ sách biên thu thuế lệ, nên đều làm riêng 02 bản: 01 bản để ở ti thuế quan người buôn nước Tây, 01 bản để ở ti thương trường chiểu thu các thuế quan do triều đình nước Đại Nam đã định. Về đơn nộp thuế cùng giấy biên hoặc chi tiêu tiền bạc ở kho ấy ra, đem để ở kho khác, cũng phải có chữ của quan nước Đại Nam và quan nước Pháp kí tên, đóng ấn. Cứ đến cuối tháng, đều đem sổ thuế hội đồng đối chiếu.
Khoản 10: Phàm chi phí trong một năm, phải lấy ở tiền thuế đèn chỉ đường và bỏ neo để chi. Nếu hạng ấy chi không đủ, lại cho lấy ở các thuế quan, nhưng không được chi quá nửa phần.
Về việc nên chi:
a. Cấp phát lương bổng cho người Tây theo giúp việc thuế quan ở nước Đại Nam, cùng quan viên nước Đại Nam và ngoài ra [là] quan viên nước khác dự làm việc thuế không phải ở Phương Tây.
b. Dựng làm các sở nha môn, sảnh, thự ở ti thuế quan.
c. Tu bổ thuyền cắm đèn, cột đèn.
d. Đào sông, đo nước cùng tất cả các khoản chi phí mà có ích cho việc buôn bán.
Khoản 11: Phàm thuế lệ đã định ở điều ước thông thương này, phải theo giữ kể từ khi [tiến hành nghi thức] giao cho nhau, hạn đủ mười (10) năm. Trong hạn ấy, nếu có khoản nào nên sửa đổi, thì kể từ ngày trong hai nước, có một nước xướng nghị trở về sau, đủ một năm, được hai nước hội đồng bàn định, mới được thay đổi.
Khoản 12: Phàm người buôn các nước cùng với các quan viên ti thuế quan có vì sự lệ thuế quan mà không bằng lòng, sinh ra kiện tụng, thì do quan sở tại nước Đại Nam cùng với quan lãnh sự nước Pháp hội đồng xét xử.
Khoản 13: Phàm các thuyền của nước Pháp và nước khác đến cửa biển nước Đại Nam hiện chuẩn cho khai thương, đều cho thuê người dẫn thuỷ dẫn đường vào cửa biển. Khi nào thuyền ấy tuân theo nộp thuế lệ mà muốn ra khỏi cửa biển, cũng được thuê người dẫn thuỷ dẫn ra, đều không ngăn trở để chậm. Người nào muốn làm nghề dẫn thuỷ phải có ba (03) người chủ thuyền buôn biên giấy nhận thực, người ấy thực là có thể làm được thì quan lãnh sự nước Pháp và quan tấn thủ nước Đại Nam cấp bằng cho làm dẫn thuỷ. Về giá thuê dẫn thuỷ, phải do quan tấn thủ và quan lãnh sự hoặc phó lãnh sự chiểu theo cửa biển xa hay gần, hiểm trở hay dễ dàng liệu định.
Khoản 14: Hễ người dẫn thuỷ dẫn thuyền nước ngoài vào cửa biển xong, quan ở ti thuế quan phái ngay một, hai người coi giữ, để thuyền ấy khỏi thầm trái điều lệ thuế buôn. Các người coi giữ ấy được tuỳ tiện hoặc ở thuyền mình, hoặc ở thuyền buôn ấy. Còn như lương bổng, tiền bạc ăn hằng ngày và tiêu dùng, sẽ do ti thuế quan chi cấp, không được đến chủ thuyền và chủ hàng hoá ấy đòi tính tiền phí tổn. Nếu trái lệnh thì chiểu tính tang đòi lấy ấy nhiều hay ít, [mà] trị tội, rồi đòi lại tiền tang, đưa trả sự chủ.
Khoản 15: Phàm thuyền buôn các nước ngoài đến cửa biển hiện chuẩn cho thông thương, hạn một ngày đêm, trừ ra thuyền nào thực có duyên cớ trở ngại, chủ thuyền, chủ hàng hoá ấy hoặc người thay mặt phải đem ngay bài thuyền, hoá đơn, tên người, đưa trình quan lãnh sự nước Pháp. Lại hạn một ngày đêm, quan lãnh sự ấy đem cả tên thuyền, tên người và lệ trọng tải cùng hàng hoá gì, số là bao nhiêu, khai rõ kĩ càng, chuyển tư [trình] cho quan ti thuế quan biết. Nếu chủ thuyền ấy lười biếng, khinh nhờn mà sau khi vào cửa biển đã hai ngày đêm, chưa chịu tuân theo lệ ấy, thì cứ quá một ngày đêm, phạt bạc năm mươi (50) đồng. Về tiền phạt, chỉ đến hai trăm (200) đồng là cùng. Còn tiền phạt ấy được thu vào kho thuế quan. Quan ở ti thuế quan đã tiếp được quan lãnh sự tư [trình] đến, tức thì cấp phát giấy biên, cho chủ thuyền ấy mở khoang thuyền bốc hàng hoá. Nếu chủ thuyền ấy chưa lãnh được giấy biên mà đã vội mở khung [:khoang] thuyền bốc hàng hoá, thì phải phạt bạc chỉ năm trăm (500) đồng, và tất cả hàng hoá bốc ra khỏi thuyền đều phải tịch thu vào kho thuế quan.
Lại thuyền buôn vượt biển, như có mang theo súng ống, thuốc đạn để tự vệ, mà đã có biên kê ở trong bài thuyền, thì lúc mới đến đồn cửa biển, kê khai đơn hàng, cũng đều khai cả một thể. Nếu quan nước Đại Nam cho là súng ống, khí giới, thuốc đạn ấy không tiện để ở thuyền, thì chủ thuyền ấy phải đem súng ống, thuốc đạn ấy lên trên cạn, nộp gửi quan tán thủ ở đồn địa đầu và quan lãnh sự nước Đại Pháp. Đợi khi nào thuyền ấy hoặc ra khỏi cửa biển hoặc chuyển về tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh thì trả lại. Như từ cửa biển Hải Ninh mà chuyển đến Vân Nam, khi đi có phải mang theo khí giới để tự vệ, thì do quan quản lí nước Đại Pháp và quan lãnh sự nước Pháp hội đồng liệu định. Trái lệ ấy thì súng ống, khí giới, thuốc đạn, đều [bị] tịch thu vào kho công nước Đại Nam, lại phạt bạc chỉ đến năm Trăm (500) đồng.
Lại có thuyền nào là người nước Tây và nước Tân thế giới chở trộm khí giới, thuốc đạn lên bộ trong địa phận nước Đại Nam, nếu khí giới, thuốc đạn ít thì thu lấy nộp vào kho công, lại phải phạt bạc năm trăm (500) đồng; nhiều mà có ngại, thì có thể lại bắt giam, thuyền ấy bị tịch kí, và tịch kí cả hàng hoá ở thuyền hoặc tịch kí mấy phần, tới khi ấy sẽ tuỳ nặng nhẹ nghĩ định. Còn như tịch kí án ấy thì hai nước xét xử.
Khoản 16: Phàm chủ thuyền và người buôn các nước ngoài cho được tuỳ ý thuê mượn thuyền vận tải, thuyền nhỏ để chở người đi và hàng hoá, còn giá thuê thuyền đó là bao nhiêu, cho hai bên đối giá vừa phải với nhau. Quan nước Đại Nam không phải trông nom giúp. Nếu thuyền đò ấy hoặc có lừa dối chở của cải của người buôn chạy mất, thì quan nước Đại Nam cũng không có lí phải bảo hiểm và bồi thường. Các thuyền đò ấy không phải hạn số là mấy chiếc, cũng không nên cho người giữ lấy, và không cho người phu khuân vác nắm cả bốc hàng lên, đưa hàng xuống.
Khoản 17: Phàm người buôn các nước ngoài, mỗi lần bốc hàng [lên,] đem [hàng] xuống, phải kê khai đơn hàng trước cho minh bạch, đệ trình quan lãnh sự. Quan lãnh sự ấy tức thì chuyển tường quan ở ti thuế quan, [để xin] cấp giấy chuẩn cho bốc hàng lên, đem hàng xuống. Nhưng tra xét các hàng hoá đã khai ấy cho thoả đáng, để cho đôi bên đều không phải thiệt.
Hễ khi xem xét hàng hoá định thuế, người buôn ấy nếu không muốn tự phải cùng xét, phải uỷ người am hiểu làm thay, thì cũng cho tuỳ tiện. Nếu đương lúc xét hàng hoá định thuế, mà người buôn ấy không theo lệ cùng xét, thì sau dù có kêu ca gì cũng không được chấp nhận. Hoặc nếu người buôn cùng với quan ở ti thuế quan định giá hàng hoá có không hợp, thì hai bên đều nên chiêu tập người buôn mỗi bên hai, ba (02, 03) người, đến đấy đối chiếu, cùng so sánh giá. Trong đó, có người nào trị giá cao, thì phải theo giá ấy mà đánh thuế.
Phàm nộp thuế quan thì lấy hàng hoá trần làm đích. Nếu có gói bọc, thì phải bỏ đi. Nếu người buôn cùng ti thuế quan so sánh định bì gói của hàng hoá không hợp, thì hai bên đều đem một, hai hòm, thùng, bao hàng hoá ấy có cả bì đem cân qua, xem nguyên nặng là bao nhiêu. Lại bỏ bì ra cân nặng là mấy cân, rồi sau đem các thứ nặng nhẹ không đều nhau tính suốt, chia đều làm chuẩn đích. Cái khác theo lệ ấy mà suy ra.
Nếu đương lúc kiểm tra hàng hoá mà có gì ngăn trở không thể phân giải được thì người buôn ấy nên lập tức xin quan lãnh sự liệu định. Quan lãnh sự ấy cũng tư [trình] cho quan ở ti thuế quan biết. Trong đó, hết sức điều đình làm cho phải, cốt cho hai bên cùng bằng lòng. Duy người buôn ấy có kêu ca gì, không [quá] ở trong hạn một ngày đêm. Nếu quá hạn, hết thảy không được chấp nhận đơn. Lại đương lúc hai bên không hợp nhau, chưa được xét định, thì quan ở ti thuế quan, chờ đem hàng hoá ấy biên vào trong sổ. Đợi hai bên xét rõ thoả đáng, mới được ghi chép vào sổ. Lại vì hàng hoá có bị duyên cớ gì mà thiếu hụt, thì lập tức phải khám xét lại. Về thuế cũng chiểu số thiếu hụt là bao nhiêu, lượng giảm, hoặc nên chiểu theo như trên, chiêu tập các người buôn đã am hiểu đối chiếu, xét xem cũng được.
Khoản 18: Phàm các thuyền buôn đã vào cửa biển hiện chuẩn cho khai thương, mà chưa lãnh giấy cấp cho bốc dỡ hàng như khoản trên đã nói, thì hạn cho hai ngày đêm có thể ra khỏi cửa biển đi đến cửa biển khác, [và ở trường hợp này] thì thuế quan, thuế hàng hoá, cửa biển ấy không phải đòi thu. Đợi đến cửa biển khác, bán hàng hoá, sẽ phải chiểu lệ nộp thuế.
Khoản 19: Phàm chủ thuyền hay người buôn, [tuân] điều lệ dỡ hàng nộp đủ thuế, đều chiểu theo hàng hoá đã dỡ ấy [mà] đã được xét, lần lượt nộp thuế; bốc hàng xuống thuyền để xuất khẩu, cũng chiểu theo lệ ấy mà làm. Các thuế thuyền, thuế hàng hoá đã nộp đủ xong rồi thì quan ở ti thuế quan phải cấp ngay cho giấy biên nhận đã thu cả để trình quan lãnh sự xét rõ, đem ngay bài thuyền và các giấy biên đã nộp trước giao trả, chuẩn cho ra khỏi cửa biển. Tuy vậy, nếu chủ thuyền ấy cùng ti thuế quan hợp ý, mà muốn cho việc buôn bán được tiện lợi dễ dàng, thì cũng được chiểu theo bài thuyền và hoá đơn mà đánh thuế, thu thuế, không phải đợi dỡ bốc hàng để khám xét.
Khoản 20: Phàm thuyền buôn tiến đến cửa biển đã qua hạn hai (02) ngày đêm như khoản mười tám (18) đã định, và trước khi chưa bốc dỡ hàng hoá, phải đem ngay tiền thuế đèn chỉ đường và bỏ neo nộp đủ, theo như khoản thứ ba (03) đã định; không được lại sinh cớ khác yêu sách tính tiền phí tổn. Lúc nộp tiền thuế, quan ở ti thuế quan cấp phát ngay giấy chấp chiểu, khai rõ thuế thuyền đã từng nộp xong. Nếu thuyền ấy tuỳ tiện chở đến cửa biển khác, đem ngay giấy chấp chiểu ấy đưa trình quan ở ti thuế quan sở tại tra xét quả thực, thì miễn nộp thuế thuyền lần nữa.
Lại phàm thuyền buôn các nước ngoài đến buôn ở cửa biển nước Đại Nam hiện chuẩn cho khai thương mỗi một (01) lần từ nước ngoài tiến đến nước Đại Nam, chỉ nộp thuế thuyền một (01) lần mà thôi.
Khoản 21: Phàm thuyền buôn các nước ngoài đã tiến vào cửa biển hiện chuẩn cho khai thương, nếu đem hàng hoá bốc lên ít nhiều ở cửa biển ấy, thì chiểu số hàng hoá đã bốc ấy nộp thuế. Về hàng hoá còn lại tuỳ ý mang đến cửa biển khác bốc lên để bán, thì phải đợi đến khi đến cửa biển khác sẽ nộp. Nếu có thuyền nào ở cửa biển đã đem thuế hàng hoá nộp đủ xong việc, muốn đem hàng hoá ấy chuyển đến cửa biển khác để bán, thì bảo rõ với quan lãnh sự, [thông] tư cho quan ở ti thuế quan biết; xét rõ hàng hoá ấy quả là nguyên phong, không động đến, thì phải cấp cho bài chỉ, giữ làm bằng; chưa rõ hàng hoá ấy đã từng nộp đủ thuế ở cửa biển nào, để cho cho người buôn ấy đến cửa biển khác, chỉ đem bài chỉ ấy trình quan lãnh sự, chuyển đưa cho quan ở ti thuế quan sở tại tra xét, miễn thuế cho, liền cấp ngay bài chỉ bốc dỡ hàng hoá, tất cả tính tiền phí tổn đều không. Duy lúc quan ở ti thuế quan xem xét hàng hoá ấy, thấy đích thực có tình tệ lậu thuế hàng hoá và gian dối, tức thì tịch thu hết hàng hoá ấy vào kho thuế quan.
Khoản 22: Phàm hàng hoá trong thuyền người buôn, trừ [trường hợp] được có giấy tờ cấp riêng và gặp có việc cần phải chuyển vận không kể, ngoài ra không được tự tiện chuyển vận đến thuyền khác, chỗ khác; gặp có việc không chuyển vận không được, người buôn ấy phải báo rõ với quan lãnh sự cấp cho giấy chấp chiểu, đệ trình quan ở ti thuế quan xét và chuẩn cho, nhưng phải sai nha thuộc đến nơi khám xét. Nếu không phải vì nguy hiểm và chưa lãnh giấy tờ mà tự tiện chuyển vận, thì những hàng hoá đã chuyển vận ấy đều [bị] đem tịch thu vào kho thuế quan.
Khoản 23: Phàm các nha thuế quan ở các cửa biển thông thương đều lãnh các thứ cân, quả cân, trượng, thước của Bộ Hộ nước Đại Nam ban cấp cho, mỗi thứ một bộ, và phải lãnh một bộ đưa đến để ở dinh quan lãnh sự. Các cân, thước nặng nhẹ, dài ngắn, chiểu theo giống như của nước Đại Nam vẫn dùng không khác. Mỗi cái đều có khắc ghi dấu tích của Bộ để làm chuẩn đích. Phàm cân đo hàng hoá ở thuyền cùng thuế quan và số bạc chi cấp, đều theo cân và quả cân ấy giao dịch với nhau. Nếu hai bên có tranh dài, ngắn, nặng, nhẹ không nhất định, thì lấy cân thước ấy làm nhất định.
Khoản 24: Phàm chủ thuyền và người buôn ra vào các cửa biển thông thương, người nào dám chở trộm hàng hoá gì ra vào cửa biển, thì không kể chở nhiều hay ít, hàng hoá gì, giá bao nhiêu, cùng vật cấm đã chở mà trá mạo đem lên bờ, đều phải do quan địa phương sở tại tra bắt, tịch thu vào nhà nước. Triều đình nước Đại Nam lại có thể sức [:truyền lệnh] bắt thuyền buôn ra khỏi cửa biển, sau này không được lại đến buôn bán ở các cửa biển thông thương của nước Đại Nam nữa.
Lại nếu có thuyền buôn nước này mà dám giả mạo dùng cờ hiệu của nước khác, thì do quan nước Pháp tuỳ việc tìm cách ngăn cấm trừng trị, để ngăn thói điêu. Lại phàm tiền phạt cùng hàng hoá tịch thu đem bán được tiền là bao nhiêu, đều thu vào kho thuế quan.
Khoản 25: Vua nước Pháp được tuỳ tiện phái tàu binh đậu ở cửa biển hiện chuẩn cho họ thông thương ở nước Đại Nam, để đàn áp thuỷ thủ các thuyền buôn, và giúp uy quyền cho quan lãnh sự. Lại sẽ định điều luật hạn chế để khỏi do tàu binh ấy đậu ở sông và cửa biển mà gây ra sự trở ngại. Phàm tàu binh đều miễn nộïp các hạng thuế quan và tiền lương.
Khoản 26: Phàm tàu binh nước Pháp đi lại tuần phòng, hộ vệ thuyền buôn, hễ đến cửa biển nào ở nước Đại Nam, đều lấy tình hữu nghị tiếp đãi. Các tàu binh ấy được nhờ mua các vật ăn dùng. Nếu có hỏng cũng được mua các vật liệu tu bổ; [việc mua vật liệu ấy] đều không trở ngại.
Tàu buôn các nước ngoài nếu có hư hỏng và các việc nhân nạn bão nguy cấp, cần phải tiến đến cửa biển để lánh, thì không cứ cửa biển nào, cũng chiểu lệ ấy trông coi, đối đãi. Nhưng tàu ấy cũng phải đậu tạm, đợi yên lặng thì phải đi ngay, không được đậu lâu, bốc dỡ hàng hoá buôn bán. Nếu các hạng tàu ấy không may đắm vỡ ở gần biển nước Đại Nam, quan địa phương sở tại khi nghe tin báo, phải cứu vớt ngay và liệu biện pháp giúp các việc cần dùng. Lại tìm cách cứu giúp vật liệu, hàng hoá ở thuyền ấy; rồi [thông] tư ngay cho quan lãnh sự gần đấy biết, [để] hội đồng với quan địa phương tìm cách cho các người chân sào [:thuỷ thủ] ở thuyền buôn ấy về nước, và đem giả các thứ ván gỗ, hoá vật hiện vớt được, như được hạng nào, bao nhiêu, giao trả cho chủ cũ.
Còn như cửa biển Thuận An, là nơi gần đường sông kinh đô nước Đại Nam, các hạng tàu binh, tàu buôn ấy không được chạy đến đậu lại. Nếu tàu binh nước Pháp có được phái đến việc công gì với triều đình nước Đại Nam hoặc với quan khâm sứ nước ấy, mà xin vào cửa biển ấy, đến khi ấy phải có nước Đại Nam chuẩn cho vào cửa biển mới được chạy vào.
Khoản 27: Phàm thuyền buôn nước Đại Nam nếu buôn bán ở nước Pháp, hoặc [ở] thuộc địa nước ấy như các cửa biển ở sáu (06) tỉnh Nam Kì, cũng chỉ chiểu theo như thuyền buôn của nước mà nước Pháp đối đãi rất hậu (:tối huệ quốc), nộp các hạng thuế quan.
Khoản 28: Triều đình nước Pháp lại xin theo khoản thứ hai (II) trong tờ hoà ước ngày mười lăm (15) tháng ba (03) Tây năm nay đã nói, phải hết sức đánh giết giặc thuỷ, bộ, [vốn] làm ngăn trở đường buôn bán; mà ở các cửa biển, các phố gần đây hiện chuẩn cho thông thương, càng phải hết sức [đánh dẹp giặc cướp], để cho người buôn được thông hành buôn bán.
Khoản 29: Thương ước này cũng nên phụ với hoà ước mới năm nay (ngày hai mươi bảy [27] tháng giêng [01] Nam: 15 tháng 03 Tây) cùng chiểu theo một thể mà làm. Hễ việc giao cho nhau [:hỗ giao] xong, hai nước phải nên theo giữ. Nếu thương ước ấy [:này] làm [lễ hỗ giao] xong kịp, cũng không được quá ngày 15 tháng 03 Tây năm sau. Nên khâm sai toàn quyền đại thần hai nước đều phải kí tên, đóng ấn làm bằng cứ.
Thương ước trên này viết bằng chữ Tây và chữ Nam, mỗi thứ hai (02) bản; [đã] đối chiếu [bản] chữ Tây, [thấy:] phù hợp với những điều đã thoả định ở Phủ Nguyên soái thành Gia Định. Niên hiệu biên ngày hai mươi (20) tháng bảy (07) năm Tự Đức thứ hai mươi bảy (27), tức lịch Tây ngày 31 tháng 08 năm 1874.
Lại
TỤC NGHỊ:
Toàn quyền đại thần hai nước định thêm một khoản, để khỏi sau này một, hai câu trong thương ước, hoà ước có nghĩa ngờ. Khoản ấy cũng phụ theo với thương ước theo giữ như nhau.
Và xét phố Hà Nội đã cho người Tây các nước ngoài đến buôn, thì phải đặt một quan lãnh sự và lính đi theo. Và người buôn nước Tây làm nhà cửa chứa hàng hoá, ở, buôn bán, và một sở thuế quan theo như cửa biển Thi Nại và Ninh Hải, nếu sau lại xét ti thuế quan cửa Ninh Hải đủ để đánh thuế, thu thuế, thì ti thuế quan Hà Nội được bỏ bớt ngay. Nhưng quan lãnh sự cùng lính đi theo và người buôn nước Tây vẫn ở lại Hà Nội buôn bán. Nơi mà nước Đại Nam đã cho các quan lãnh sự nước Pháp và lính đi theo ở, mỗi nơi đất rộng theo thước Nam là năm (05) mẫu, thành thước Tây ước hai (02) mẫu rưỡi (1/2). Đất ấy không phải trả tiền. Nếu người buôn nước Tây có mua đất làm nhà, thì phải chiểu giá trả tiền, mà quan nước Đại Nam cùng quan lãnh sự nước Pháp ở đấy hội đồng định giá, cốt được vừa phải.
Lại người buôn nước Tây làm nhà, tất phải gần nha thự quan lãnh sự; không được xâm phạm đến chùa, miếu, phần mộ. Trong đó nếu có nhà của người mà chủ nhà tình nguyện bán đi, thì người Tây mới được chiểu giá nộp trả, cần phải xứng đáng. Phàm đất người buôn Tây đã ở, phải nộp thuế lệ bao nhiêu, đều theo lệ định hiện nay theo thế mà nộp thôi, không có thuế khác ở ngoài lệ. Còn như lãnh sự và lính đi theo đóng ở Ninh Hải, nay hãy ở lại đồn Ninh Hải, để tiện tuần phòng, kiểm xét, đợi khi nào việc buôn yên ổn, quan lãnh sự và lính đi theo ấy lại dời đến ở chỗ đất năm (05) mẫu của nước Đại Nam đã cho; còn đồn Ninh Hải giao lại cho quan nước Đại Nam coi đóng.
Niên hiệu biên ngày hai mươi (20) tháng bảy (07) năm Tự Đức thứ hai mươi bảy (27), tức lịch Tây là ngày 31 tháng 08 năm 1874.
Lại
TỤC NGHỊ:
Hình bộ thượng thư, Kì Vĩ bá, sung chánh sứ toàn quyền đại thần của nước Đại Nam Nguyễn Văn Tường; tổng thống Nam Kì thuỷ lục quân dân, kiêm thống Đại Thanh, Nhật Bản lưỡng quốc ngoại dương chư binh thuyền đại nguyên soái của nước Đại Pháp Kha Răng [Krantz], được thưởng đại hạng thưởng công kim bội tinh, sung toàn quyền đại thần; hội đồng nghĩ định, đem các lời nói ở khoản thứ hai (02) trong thương ước năm nay (biên ngày hai mươi (20) tháng bảy (07) Nam, ngày 31 tháng 08 Tây) nói:
Từ chữ “Nhất định phàm thuyền buôn nước Đại Thanh chở hàng hoá ra, vào, về hạng cấm cùng thuế quan, phải chiểu theo hàng hoá được tải ra, vào của các hiệu thuyền Tây và Tân thế giới (tức hai tờ ước gọi là Cờ các nước ngoài) theo nộp như nhau. Duy thuế phải nộp của các thuyền buôn nước Đại Thanh và nước Đại Nam là bao nhiêu, đều thuộc về quan ti thuế quan nước Đại Nam thu riêng, cất riêng; nếu muốn chi tiêu việc gì, chỉ quan nước Đại Nam tính liệu riêng mà thôi. Còn như hàng cấm thì thuyền buôn nước Đại Nam cũng giống như các nước”.
Nay nên nghĩ lại rằng: Phàm thuyền buôn của nước Đại Thanh cùng thuyền buôn của nước Đại Nam chở hàng hoá từ nước ngoài vào các cửa biển nước Đại Nam hiện chuẩn cho khai thương, hoặc từ các cửa biển nước Đại Nam hiện chuẩn cho khai thương ra các nước ngoài, thì lệ cấm và thuế quan cũng giống như thuyền buôn hiệu cờ nước Tây và Tân thế giới chở hàng hoá ra vào. Còn thuế lệ cũng thuộc viên quan ở ti thuế quan thu cất, cùng [thuế lệ áp dụng cho thuyền buôn] các nước giống nhau, không khác. Ngoài ra theo như khoản cũ. Điều ấy đợi đến khi thương ước đã định ngày ba mươi mốt (31) tháng tám (08) Tây năm nay cũng giao cho nhau [:lễ hỗ giao] thì viết thêm, đính vào làm một với thương ước ấy.
Niên hiệu biên ngày mười lăm (15) tháng mười (10) năm Tự Đức thứ hai mươi bảy (27) ta, tức lịch Tây ngày 23 tháng 11 năm 1874.
16
Mới đến Gia Định, sau một số buổi đàm phán về thương ước, một thương ước về cơ bản đã tạm hoàn thành từ cuối năm Quý dậu (1873, bước sang 1874) tại Hà Nội, Nguyễn Tăng Doãn lại phải cùng Sô Ma Rô ra lại Huế để trực tiếp thỉnh thị ý kiến vua Tự Đức (202). Quả là cuồng vọng của thực dân Pháp là chiếc túi tham không đáy! Dupré cũng thế, Krantz cũng thế! Krantz muốn ghi thêm vào thương ước điều khoản: Mở thêm phố buôn bán và đặt lãnh sự ở Hà Nội (202). Điều khoản ấy sẽ thành một trong hai tục ước của thương ước. Trong thời đoạn lịch sử này, “nước Đại Nam đâu chỉ đối diện với Pháp và Trung Hoa” mà phải đối diện với bao nước thực dân Âu Mỹ khác! Không thể không đồng ý, vì phải nhẫn nhịn trước liên minh xâm lược Âu Mỹ (mặc dù trực diện là Pháp), do đó, nhà vua chuẩn y.
Một điều khoản nữa sẽ thành tục ước, nhưng không phải kí cùng ngày với thương ước, hai mươi tháng bảy, năm Tự Đức thứ hai mươi bảy, Giáp tuất (31.08.1874) (203), mà vào bốn mươi lăm ngày sau, mười lăm tháng mười nguyệt lịch (23.11.1874). Đây không phải là điều khoản bổ sung như trên, lại là điều khoản sửa đổi. Thực chất của điều khoản sửa đổi này (tục ước thứ nhì) là Pháp muốn cạnh tranh với Trung Hoa, đồng thời giảm số thuế lẽ ra thuộc về Đại Nam hoàn toàn. Nội dung tục ước thứ nhì là: Thuế thu được từ thuyền buôn nước Trung Hoa theo thương ước đã kí là hoàn toàn thuộc về Đại Nam, nay chữa lại là số tiền thuế ấy cũng phải được sử dụng với cách thu chi như số tiền thuế thu được từ tàu Âu Mỹ và tàu từ thuộc địa Nam Kì của Pháp; và Pháp ép buộc thuyền buôn Đại Nam không có ưu thế gì so với thuyền buôn của Pháp và Âu Mỹ nói chung (203)!
Tuy nhiên, lúc này mới là tháng bảy nguyệt lịch, sứ bộ Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn đâu ngờ về sau Krantz cứ nằng nặc yêu sách vua Tự Đức và triều thần phải chấp nhận thêm tục ước thứ hai ấy, vào tháng mười năm nay!
Sau khi kí thương ước và tục ước thứ nhất xong, vào tháng tám nguyệt lịch, phó sứ Nguyễn Tăng Doãn cùng linh mục thông ngôn Nguyễn Hữu Cư ra Bắc Kì, bàn việc đánh dẹp giặc biển với Dujardin, đồng thời quy hoạch địa điểm cho Pháp xây đặt Nha Lãnh sự tại Hải Dương và tại ngoài thành Hà Nội (204). Cho đến cuối tháng chín Giáp tuất (1874), Nguyễn Tăng Doãn mới vẽ xong bản đồ Hải Dương cùng bốn phía tỉnh ấy cùng các chú giải, thuyết minh về chỗ ở, chỗ đóng trạm của lãnh sự Pháp, để trình về triều đình (204).
Trong thời gian này, chánh sứ Nguyễn Văn Tường phải thương xuyên ra vào Huế – Sài Gòn, để tiếp tục hoàn tất nốt thương ước, tục ước, kể cả bàn bạc để triển khai “hoà” ước Giáp tuất 1874.
Tháng tám ta, chánh sứ Nguyễn Văn Tường tâu bàn về điều khoản hai mươi (20) của “hoà” ước Giáp tuất 1874 (205). Theo điều khoản ấy, nước ta có quyền đặt một khâm sứ tại thủ đô Paris của nước Pháp, và Pháp cũng có quyền đặt một khâm sứ tại kinh đô Huế nước ta. Chánh sứ Nguyễn Văn Tường xét thấy khó khăn nếu thực thi như thế. Ông viện dẫn: một là, trình độ ngoại ngữ tiếng Pháp của quan ta còn kém, hai là, thông tin liên lạc (điện báo) ta hoàn toàn phụ thuộc vào Pháp. Sử dụng điện báo của Pháp, không khỏi bị tiết lộ bí mật. Nếu mật bàn qua thư tín, thư tín do nhân viên ta qua, về (Paris – Huế) giao nhận, lại quá chậm chạp, tốn kém lộ phí tàu xe… Do đó, ông đề xuất: Chỉ đặt khâm phái kiêm lãnh sự (chánh, phó, hai [02] viên) ở Gia Định. Dupré trước đây cũng bàn như thế, nay tuỳ nhà vua chuẩn y hoặc không. Nếu vua chuẩn, xin giao đình thần chọn người (205). Thật ra, không chỉ chánh sứ Nguyễn Văn Tường, vua Tự Đức và đình thần đều biết, ngoài những khó khăn, hạn chế có thật đó, các tên tướng suý Pháp, cho dù là Dupré hay Krantz, đều muốn tăng cao quyền lực của chúng: nước ta chỉ quan hệ với nước Nam Kì thuộc Pháp mà thôi! Đó là điều Nguyễn Văn Tường từng quyết liệt tố cáo bọn tướng suý Pháp tại Gia Định trong bản tấu tháng ba năm Tự Đức thứ hai mươi mốt (1868). Về những khó khăn, ông viết:
“… Xem các nước Tây phiên đi lại hoà hợp, tiếng nói chữ viết cùng thông, lại có điện báo để thông tin tức. Nếu ta giao thiệp với nước ấy, chỉ dựa vào giấy tờ, một khi phiên dịch sai đi, lại sinh không hợp, thì đặt khâm sứ ở kinh đô không ích gì. Nếu đặt sứ ở Gia Định, là ngang hàng với kinh đô, chưa [được] là thoả đáng, hoặc chỉ đặt lãnh sự thì phẩm trật danh vọng thấp kém, theo tục nước Tây không được dự bàn việc công. [Xin] nghị đặt một viên khâm phái kiêm sung lãnh sự ở Gia Định, lại đặt một viên phó lãnh sự để giúp uỷ làm việc. Thần trước phụng mạng đi sứ, đã từng thương thuyết với tướng [Dupré, Krantz] ấy, ý hợp. Nếu được chuẩn cho, xin giao cho đình thần dự chọn và nghĩ làm công việc”.
“Vua theo lời” .
Không phải vua Tự Đức và triều thần không thấu hiểu việc ấy như Nguyễn Văn Tường đã thấu hiểu. Đã nhiều lần nhà vua cử phái bộ sang Pháp trực tiếp thương thảo với vua Pháp vì sợ tướng suý Pháp tại Gia Định vượt quyền, lập công vượt chỉ tiêu! Nhưng trong thực tế, ngay cả sau khi “hoà” ước, thương ước, tục ước đã kí kết, thực dân Pháp vẫn muốn làm sức ép!
Cuối tháng tám nguyệt lịch, Giáp tuất (1874), từ Gia Định, chánh sứ Nguyễn Văn Tường gửi tập tâu về triều: Xin chỉ dụ cho dân buôn, nhất là dân buôn người Hoa (nước Thanh), đăng kí làm nhà, mở phố dọc hai bờ sông Cấm ở Ninh Hải thuộc tỉnh Hải Dương; đồng thời chuẩn cho đình thần chọn quan trông coi ở đấy. Đó là yêu cầu của phía Pháp để Pháp có thị trường (chợ búa) mua bán. Ông cho rằng điều này cũng tiện cho ta trong việc khoanh vùng để quản lí. Vua cho là phải (206).
Chánh sứ, thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường lại trở về Huế.
Trên chuyến tàu thuỷ chạy bằng máy hơi nước, rời bến Thủ Ngữ, Sài Gòn, ra cửa Cần Giờ để men theo duyên hải ra kinh đô, ông thấy lòng không thể thanh thản, cho dù công việc đã hoàn tất. Thế là đã bao nhiêu tháng ngày rồi, kể từ khi ông được sắc dụ và chiếu chỉ của vua Tự Đức, rời khỏi các quân thứ đang tiễu phỉ ở biên giới phía bắc Tổ quốc, để sung vào sứ bộ, cùng Lê Tuấn, Nguyễn Tăng Doãn vào Gia Định? Thượng thư Nguyễn Văn Tường nhớ ngày ấy là vào tháng năm Quý dậu (1873). Đến ngày mười sáu tháng sáu nhuận (08.08.1873) năm ngoái ấy, ông mới thực sự xuống tàu thuỷ vào Nam Kì. Từ đó tới lúc đặt bút kí tên, áp ấn toàn quyền đại thần lên “hoà” ước hai mươi tháng giêng Giáp tuất (15.03.1874) là hơn sáu tháng dài! Từ đó tới lúc kí kết thương ước hai mươi tháng bảy Giáp tuất (31.08.1974) là hơn mười hai tháng hai mươi ngày! Và nếu tính từ đó đến lúc kí thêm tục ước thứ nhì với chỉ mỗi một điều khoản sửa đổi vào ngày mười lăm tháng mười Giáp tuất (23.11.1874) là đã mười lăm tháng rưỡi! Từ chuyến tàu thuỷ khởi sự đến chuyến tàu thuỷ tất công, dài đến mười lăm tháng rưỡi! Trong quãng thời gian mười lăm tháng rưỡi ấy, có những sự kiện nổ ra thật khốc liệt, bi hận và bi tráng, mãi mãi không thể phai nhoà trong tâm khảm ông và của bao người cùng thời, mãi mãi còn ghi khắc vào lịch sử muôn đời, không bao giờ mờ nét!
Thượng thư Nguyễn Văn Tường bất giác thở dài, khi nhớ đến cuộc nội chiến lương – giáo Nghệ – Tĩnh – Bình – Thanh, hiện nay trên cửa miệng mọi người vẫn quen gọi là sự biến “sát tả” của văn thân Nghệ – Tĩnh. Ông thừa hiểu và thấm hiểu ấy là cuộc trừng trị bọn “tả đạo” phản quốc của hai lãnh tụ yêu nước, trung thành với triều Nguyễn, Trần Tấn và Đặng Như Mai, cùng bao sĩ phu, nhân dân trên vùng đất Nam Đàng Ngoài. Bấy giờ, đau lòng theo lệnh dụ của vua, ông cùng binh lính phóng ngựa ra sông Gianh. Cùng với thượng thư Bộ Lễ Lê Bá Thận, ông vẫn lần chần, nào nỡ tiến quân, nào nỡ gọi Trần Tấn và Đặng Như Mai cùng nhân dân Nghệ – Tĩnh yêu nước hưởng ứng hịch khởi nghĩa là “giặc”! Chỉ trách họ xem nhẹ việc “bình Tây”, đặt nặng việc “sát tả”, lại không phân biệt những tên đầu sỏ với bao giáo dân ngây ngô, đến nỗi rơi vào âm mưu kích động thù hận lương – giáo của bọn viễn chinh Pháp và cố đạo Pháp! Và mãi cho đến khi chiếc tàu Antilope của Pháp chạy ra đón ông (và cả Nguyễn Tăng Doãn) với lệnh dụ “sứ bộ phải vào Gia Định ngay” của vua Tự Đức trong tay linh mục hành nhân Nguyễn Hữu Cư, ông mới phải đau lòng chấp nhận “ngọc đá đều cháy” (207), bất đắc dĩ phải điều thêm một số thuyền công, thuyền đánh cá của dân, bước xuống tàu Antilope ấy để nhìn bọn Pháp bắn doạ vào các lán trại, thành luỹ quân khởi nghĩa và cả quân giáo dân tại Mũi Dao, Thần Đầu, Đèo Con trong nội mỗi một ngày, sau đó cùng tàu Antilope lại quay vào Huế! Thật ra, không chỉ riêng ông có tâm trạng ấy, mà các quan tỉnh, quan quân thứ cùng bao người dân, người lính đều băn khoăn, khó xử trong tình huống đó.
Thật ra, chính ông và các quan quân đã yêu cầu bọn Pháp trên tàu Antilope:
- Cánh quân chúng tôi sở dĩ không tiến, bởi còn phân vân khó xử. Lương hay giáo đều là con đỏ của hoàng đế và triều đình. Nếu không công bằng, sẽ phải lãnh nhận một hậu quả khôn lường: nội chiến lương – giáo sẽ không ngừng, thù hận không bao giờ thôi, và khó lòng có một hoà nghị nào giữa người Pháp với triều đình.
- Vậy phải xem lương hay giáo gì trong cuộc nội chiến này đều là “giặc” nổi loạn? – Một tên sĩ quan Pháp hỏi, nhưng y đã tự trả lời –.
- Đúng như vậy! Và chỉ nên bắn doạ, để cả lương lẫn giáo đều tan rã hàng ngũ! – Nguyễn Văn Tường nói thật cứng giọng –. Không còn cách nào khác!
- Đồng ý, thưa quan thượng thư chánh sứ.
- Các ông nên nhớ tôi là thượng thư Bộ Hình. Bộ Hình phải giữ kỉ cương, phép nước, và phải tuyệt đối công bằng. Tôi được hoàng thượng cử ra đây, không phải để cầm gươm, cầm súng, mà để thực thi luật pháp với tinh thần tuyệt đối công bằng!
- Thế thì nhân danh Thần Công lí, xin ra lệnh nổ súng bắn doạ cả lương lẫn giáo, nếu họ không chống cự! – Tên thuyền trưởng tàu Antilope nói –.
Trong tình huống khó xử ấy, thượng thư Nguyễn Văn Tường nghe quan binh truyền nhau câu nói của viên tướng trẻ rất tài năng về thao lược là Tôn Thất Thuyết: “Ngọc đá đều cháy”! Ngọc trong ngần, ngọc sáng ngời, biết bao quý giá cũng đành phải đánh đồng cùng loại với đá tầm thường, thậm chí xấu xa! Quân khởi nghĩa cũng như bọn giáo dân phản quốc của tên cố đạo thực dân Gauthier (Ngô Gia Hậu), quan quân đành lòng xem như đều là “giặc”! Thượng thư Nguyễn Văn Tường chẳng hiểu sao giữa ông và tham tán Tôn Thất Thuyết lại có khẩu hiệu tương ứng với nhau như thế: “Ngọc đá đều cháy”! Nhưng ngẫm cho cùng, ấy là ý tưởng nẩy sinh từ một tâm thế chung trong một tình huống chung. Người ta còn truyền ngôn, không biết có đúng không, rằng Tôn Thất Thuyết trong tình huống đau lòng, khó xử ấy, đã nói như đinh đóng cột: “Đây là cuộc hành quân truy quét với mục tiêu chính trị, nếu cần tàn nhẫn cũng phải đành lòng! Đánh dẹp cả bọn giáo dân “tả đạo” lẫn quân khởi nghĩa văn thân!”. Tất nhiên đó chỉ là lời truyền miệng, thượng thư Nguyễn Văn Tường đến lúc này vẫn chưa có dịp gặp lại Tôn Thất Thuyết để hỏi lại cho rõ thực hư. Nhưng dẫu sao, ấy vẫn là cách xử trí đơn giản mà thiết thực nhất, như thể hai đứa em nhỏ trong nhà bị người lạ ác tâm kích động đến mức ẩu đả nhau u đầu sứt trán, thì người anh cả chỉ còn cách lôi hai đứa ra hai đường sau khi quất cho mỗi đứa vài roi vào mông, để còn thời giờ đối phó với người lạ ác tâm! Ví von thế là xúc phạm, nhưng ví von nào chẳng khập khiễng!
Chính vì khẩu hiệu “ngọc đá đều cháy” , bọn Pháp của tàu Antilope đã bị giáo dân Nam Đàng Ngoài thù hận như họ đã thù hận triều đình nhà Nguyễn. Thậm chí cộng đồng giáo dân ấy đã nhận định rằng, người Pháp nói chung đã bắt tay với vua Tự Đức để phản bội họ, bỏ rơi họ như đã phản bội, bỏ rơi một vạn hai (12.000) tên “lính bản xứ Bắc Kì” và bọn chức sắc ngụy ngợm cỡ tên thợ rèn Hải Dương phản quốc tên Trương. Sự thật lịch sử đó, về sau, khoảng vào đầu hạ tuần tháng ba năm Ất hợi (1875), đã được vua Tự Đức nêu ra trong sắc dụ ban ra cho giáo dân Nghệ – Tĩnh: “Dân lương hay dân giáo đều là dân ta, thì đều là con đỏ của ta. Tự thù hằn nhau, đã là không nên, lại thù hằn với người Pháp, còn ra thế nào? […] Huống chi lại chống cả người Pháp, chống cả quan… […] Dân giáo của ngươi nhiều người bị chết, dân lương há không chết nhiều ư? Bảo rằng của cải dân giáo mất nhiều, dân lương bị mất, so với ngươi há lại chẳng gấp đôi ư? Nếu hết thảy phải đền [cho] ngươi, thì dân lương bị mất, sẽ ai phải đền?… Trong khi chiến tranh, ngọc, đá đều cháy […]. Triều đình xử trí cho hai bên không ngờ ghét nhau…” (207) (208) . Bấy giờ, lúc đấu tranh với thuyền trưởng Antilope, và lúc này, cuối tháng tám nguyệt lịch năm Giáp tuất (1874), tất nhiên sắc dụ ấy chưa viết và chưa ban ra, nhưng tinh thần hành xử ấy, trước tình huống ấy (là trấn áp cuộc nội chiến lương – giáo đó với khẩu hiệu “ngọc đá đều cháy” ), đã thể hiện ra hành động một cách đau lòng.
Bấy giờ, thượng thư Nguyễn Văn Tường còn nghe người ta truyền tai nhau một tuyên cáo của Tôn Thất Thuyết (209):
“Bản sao của tuyên bố mà hoàng thân Thuyết gởi cho sĩ phu, quan lại, thân hào…
Từ mười hai năm nay, bọn dã man đã chiếm đóng nước ta và nuốt đầy họng tài nguyên của ta. Chúng ta ngưng lại đây chăng?
Tôi xin bí mật khuyến cáo các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương, tất cả các phủ huyện, các sĩ phu và chánh tổng, các hào mục, hãy tuyển mộ những người can đảm và hãy sẵn sàng cùng với vũ khí và thuyền bè.
Cũng đã quyết định là vào tháng năm (05) này, toàn thể sĩ phu ai quê ở tỉnh nào về tỉnh ấy để các quan đầu tỉnh trao cho chức chỉ huy các đội quân, và tới ngày mười (10) tháng sáu (06) (tức 23.7.1874) phải cùng với bộ đội mình xuống tỉnh Hải Dương để đánh phá quân dã man và buộc chúng phải về nước bằng tàu thuyền của chúng.
Tất cả những kẻ nào dám đụng chạm đến đồng đạo của ta thì là kẻ thù của ta và sẽ bị trừng trị.
Ngày 03 tháng 05 năm Tự Đức thứ 27 (tức 16.06.1874)” (209) .
Người ta còn nói rằng: “Cờ của quân mưu phản [!] hình vuông và màu tím” (209) .
Thượng thư Nguyễn Văn Tường hơi phân vân. Ông thừa biết, vào dịp cuối tháng sáu nguyệt lịch, sau ngày đề trên tuyên cáo một tháng, và ngay sau khi tham tán Tôn Thất Thuyết tiến công với khẩu hiệu “ngọc đá đều cháy” , đánh dẹp cuộc nội chiến lương – giáo Nam Đàng Ngoài xong, vua Tự Đức “liền chuẩn cho tham tán Tôn Thất Thuyết (hiện đóng tại quân thứ Nghệ An) lấy năm trăm (500) phái binh, giao cho đề đốc Nguyễn Văn Hùng, tán lí Nguyễn Đình Thi đi gấp đường đến cứu viện [Hải Dương]” (210) . Bấy giờ, Hải Dương đang bị bọn hải tặc Tàu tên là Khách Công vây bức tỉnh thành rất nguy khốn. Lê Bá Thận cũng được lệnh điều quân đi đường thuỷ để phối hợp. Như vậy, hẳn là Tôn Thất Thuyết lúc ra tuyên cáo trên là nhắm đến không chỉ bọn hải tặc Tàu mà cả tên sĩ quan thực dân Pháp Dujardin, kẻ đang săm soi tìm kiếm mỏ than tại tỉnh ấy!
Thượng thư Nguyễn Văn Tường còn nhớ, mới vài năm trước, lúc còn ở Bắc Ninh, có lần ông đã gặp gỡ, chuyện trò rất tâm đắc và cũng đã xướng hoạ thơ để kín đáo ngụ ý mình với tú tài họ Đặng. Tú tài họ Đặng ấy là người có chí lớn, muốn ra tay trong khi nhìn vận nước ngả nghiêng. Đó là một sĩ phu nung nấu chí “bình Tây sát tả” để cứu nước khỏi ách ngoại xâm Pháp và “tả đạo”, nhưng tiếc thay chưa có điều kiện. Phóng tầm mắt trên biển xanh phía trước mũi tàu, thượng thư Nguyễn Văn Tường bỗng xa xăm và bâng khuâng ngâm thầm trong hồi tưởng:
Kí phỏng Đặng tú tài
Kỉ kinh sương tuyết phí mang bôn
Hồi ức tiên giao cứu trượng hồn
Hoàng Thạch phi vô phương lược tại
Truyền thư khước hận tải không ngôn!
Gửi tú tài họ Đặng
Trải bao sương tuyết, phí in lòng
Thường nhớ, keo sơn, cứu chí ông
Hoàng Thạch đâu chăng, phương lược đó
Gửi thư bèn hận, chuyển lời không! (211)
Tâm trạng ấy của Nguyễn Văn Tường, được thể hiện trong bài thơ ấy của ông, là tâm trạng chung của sĩ phu văn thân, và tú tài họ Đặng đâu phải một người. Trên khắp nước có hàng vạn tú tài họ Đặng phẫn chí, đau lòng trước vận nước như thế.
Bấy giờ, hai thầy trò Trần Tấn, Đặng Như Mai phải chạy trốn nơi này, chốn kia, kể cả chạy ra Bắc Kì để tránh sự truy nã, do “tội” dùng thơ văn công kích “tả đạo”, bởi Gauthier, Croc đang kêu kiện ở Bộ Lễ!
Trong tháng tám nguyệt lịch này, thượng thư Nguyễn Văn Tường đã nghẹn ngào khi hay tin Trần Tấn đã chết bệnh, Đặng Như Mai và cả Trần Quang Cán bị tử hình! Ông thấm thía nỗi đời với biết bao niềm khổ tâm! Ông suy tư về những từ ngữ bổ nghĩa cho bốn chữ “trung quân ái quốc”: khác chính kiến, khác thái độ dấn thân, nhập thế, “sát tả” đơn thuần hay vừa “bình Tây” vừa “sát tả”, nhiệm vụ và mục tiêu nào là chính yếu…
Vẫn lặng nhìn mũi tàu thuỷ rẽ sóng, thượng thư Nguyễn Văn Tường lại dần dần suy nghĩ đến những điều về khát vọng canh tân Đất nước. Khát vọng ấy vẫn chưa hề được thực hiện, cho dù suốt bao năm trầm tư, tính liệu. Ông nhớ thuở nào và ngay mới ngày hôm qua, ông đã suy nghĩ về “Đông học vi thể, Tây học vi dụng” ở Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly… Đầu tháng tư năm nay, Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn đã tiến dâng lên vua Tự Đức hai mươi (20) tập sách chữ Tây: bốn (04) tập Khung giang bát vật đồ chí, ba (03) tập Lãng sa kì đăng hiệu, mười một (11) tập Nam Kì điều lệ, một (01) tập Thuế lệ, một (01) tập Binh thuyền (211) . Đó là những bộ sách ghi chép khoáng sản, sinh vật, lưu lượng nước, vẽ đồ bản về sông Mê Kông, về quy định đèn, hiệu cho tàu biển (hải đăng, sắc cờ)…, về điều lệ ở Nam Kì do người Pháp quy định, về thuế lệ, binh thuyền… Những cuốn sách ấy, sứ bộ đã tìm mua, có cuốn được tướng suý Pháp biếu tặng, nhưng hỏi mua cũng được tặng tất (212). Nguyễn Văn Tường mong ước sao người Đại Nam ta phải mở rộng tầm nhìn về phía Âu Mỹ để học hỏi, và học hỏi ngay cả cái nhìn, cách phân tích, tổng hợp của người da trắng phương xa về những gì quanh ta, như về sông Mê Kông chẳng hạn, mặc dù kiến văn của họ có thể chưa thật chính xác. “Học ở giặc để đánh giặc” , phương châm ấy chẳng phải là truyền thống nghìn xưa, cha ông ta đã đúc kết, trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với Trung Hoa đó sao! Vua Tự Đức bảo: “Đấy thực là có lòng, có ích, giao Viện [Cơ mật] giữ cẩn thận, đợi dịch rõ để tiện xem” (212) .
Trên chuyến tàu tháng tám nguyệt lịch này, ông đã mua được để đem về cung tiến lên vua một khẩu súng lục với năm trăm (500) viên đạn, giá đến một trăm tám mươi (180) quan (213). Và nơi khoang tàu, phía ngoài phòng dành riêng này, là những người Việt, người Hoa kiều ở Gia Định, ông tìm gọi để cùng ông về Huế làm việc. Trong số ấy, có năm (05) người thông dịch tiếng Pháp, bảy (07) người là công nhân kĩ thuật cơ khí. Lần trước, ông đã tâu xin, và đã được vua đồng ý chuẩn y, nên lần này ông đưa họ về (213).
Không thể khác được! “Hoà” ước, thực chất là cưỡng ước bất bình đẳng, đã kí kết. Mặc dù được triều đình đánh giá là thắng lợi, nhưng dẫu sao “hoà” cũng là việc bất đắc dĩ. Tuy nhiên, một khi đã đành chịu phải “hoà”, lại không canh tân Đất nước về khoa học – công nghệ và về mọi mặt, không chấn chỉnh nội lực để tạo thế và lực nhằm đưa Đất nước lên tầm hùng mạnh, nhằm đuổi được bọn Pháp và các cố đạo thực dân, thì cái “hoà” ấy chẳng vô ích, thậm chí là nhục nhã lắm sao?!?
Thượng thư Nguyễn Văn Tường còn định bụng, trong tháng chín sắp tới, ông sẽ viết tập bản sớ đệ trình lên vua Tự Đức để nhắc lại, trước đây, ông đã tâu: “Súng nhỏ đạn chạy ria, phỏng giá bạc hai trăm linh hai (202) đồng. Nếu được chuẩn cho mua, xin do Bộ Binh chọn quân Thần cơ, Cảnh tất, hơi am hiểu phép bắn, đến Gia Định học tập cho thạo kĩ, mới có thể mua để dùng” (214).
Tất nhiên, mấy đời bọn giặc Pháp lại truyền hết nghề cho người Đại Nam mình, một khi chúng đang xâm lược ta bằng vũ khí, và ta thất bại trước chúng cũng vì vũ khí. Và không chỉ vũ khí, mà còn là kĩ thuật luyện quân và hành quân, tác chiến. Vũ khí mới đã sản sinh ra kĩ thuật quân sự mới! Tất cả ta đều phải học. Nhưng phải cố gắng học một biết mười. “Thắng Tàu, bởi học vượt lời Tàu xưa” (215) . Nay học Tây cũng phải vậy. Vả lại, “Tây dương” là từ chỉ chung Âu Mỹ, chứ đâu riêng chỉ Pháp!
Khi tàu thuỷ vừa đến Đà Nẵng, cập bến, để theo đường bộ ra kinh đô Huế, thượng thư Nguyễn Văn Tường lại nghe tin Bắc Kì đang phải gặp nạn bão! “Nhà cửa đổ nát, thuyền bè chìm mất, nhân dân có nhiều người bị chết” (216) . Ông đứng sững trong vài phút với nỗi thương cảm đến nghẹn ngào. Bao nhiêu tai trời ách nước, chẳng hiểu sao lại trút xuống Bắc Kì quá nỗi nặng nề. Theo thuyết “thiên nhân tương cảm tương ứng” , phải chăng do lòng người li tan, chia rẽ, đánh mất hai chữ “nhân hoà”? Dẫu sao, thượng thư Nguyễn Văn Tường vẫn cảm thấy quá đau xót, cứ thương nhớ ngậm ngùi về xứ Bắc Kì ngoài ấy.
Hết tệp 6 truyện kí thứ 7
Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 7 vào lúc 11 giờ kém 05,
ngày 09.11.2002
(05.10 Nh. ngọ, HB.2).
TRẦN XUÂN AN
(195) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 40 – 41, 53, 57, 81, 107, 109.
(196) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 78 – 80.
(197) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 85.
(198) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 83 – 85.
(199) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 105.
(200) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 107.
(201) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 87 – 104.
(202) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 82.
(203) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 103 – 104.
(204) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 105 – 106, 114, 116; NNBCĐH., bài đã dẫn, sđd., 2001, tr. 487 – 488.
(205) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 106 – 107.
(206) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 110.
(207) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 186 – 189.
(208) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 186 – 189.
(209) NĐNĐDVP. & TH., UB.KHXH. TU. Tp.HCM. xb., 1993, tr. 234 – 287.
(210) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 78 – 80. Xin xem lại theo chú thích (196).
(211) Trần Xuân An (biên soạn [chú thích, dịch thơ…]), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ, vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (KVPCĐT. NVT. T. VNVCNTH. & TT.), Trần Viết Ngạc sưu tầm, giới thiệu, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển dịch thơ, giới thiệu, Nguyễn Tôn Nhan dịch nghĩa, TS. Ngô Thời Đôn hiệu đính, TS. Võ Xuân Đàn, GS. Đoàn Quang Hưng khảo luận sử học, bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản), bài thơ số 44, bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan và bản dịch thơ của Trần Xuân An, tr. 287 – 288.
(212) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 42.
(213) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 111.
(214) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 116.
(215) Thơ Trần Xuân An.
(216) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 111.
Soạn xong phần chú thích
lúc 09 giờ 25 phút, ngày 14.11.2002
(10.10 Nh. ngọ, HB.2).
TRẦN XUÂN AN
HẾT TỆP 6
(PHÂN ĐOẠN 6 TRUYỆN KÍ THỨ 7)
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”
Xin xem tiếp TỆP 7
(phân đoạn 6 truyện kí thứ 7
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”