TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap II A)

Monday, December 12, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập II A 5)

Tệp 5 - Tập II
(PHÂN ĐOẠN 5, TRUYỆN KÍ THỨ 7)

Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm

TRẦN XUÂN AN

CƯỠNG ƯỚC “HỮU NGHỊ”
VÀ CƯỠNG ƯỚC THƯƠNG MẠI,
GIÁP TUẤT 1874


Truyện kí thứ bảy
(phân đoạn 5)

11

Quả thực, đến lúc này, sau nhiều chuyến đi tàu thuỷ dọc ven biển Đất nước, phó sứ Nguyễn Văn Tường mới nhận ra, từ Đà Nẵng trở vào, thiên nhiên có một khí hậu và thời tiết khác hẳn. Tất nhiên là nhờ thuốc thang ngự dụng và thầy thuốc ngự y, nhưng cũng còn nhờ nắng ấm, ông sớm hồi phục sức khoẻ. Ông cảm nhận điều đó bằng tất cả xúc giác của mình. Có điều, phó sứ Nguyễn Văn Tường vẫn tự thấy, chắc hẳn khi sự biến đã qua, cách giải quyết dẫu sao cuối cùng cũng do nhà vua, triều đình bàn thảo, quyết định. Và tựu trung, như thế, lòng lo nghĩ cũng bão hoà, nên giấc ngủ về đêm có phần đẫy giấc hơn, bớt trăn trở, khắc khoải, thao thức đi. Do đó, ông sớm thuyên giảm bệnh chăng.
Thật sự khi tàu mới cập bến Thủ Ngữ tại Sài Gòn cho đến mấy hôm sau, ông vẫn chưa hay ở Nghệ – Tĩnh vừa bùng nổ cuộc nội chiến “Bình Tây sát tả” !
Sau một bữa ăn tối, các thành viên chính của sứ bộ Đại Nam ngồi quanh bàn nước, vừa chuyện trò vừa bàn thảo thêm một vài khía cạnh của “hoà” ước và cả thương ước.
Chánh sứ Lê Tuấn vẫn còn hơi mệt mỏi, mặc dù chứng viêm họng mạn tính đã khỏi cơn tái phát. Ông vẫn luôn nói năng chậm rãi, từ tốn. Giọng Hà Tĩnh của một người nhiều năm ra Bắc vào Nam vẫn còn nguyên chất:
- Quan phó sứ rời khỏi Gia Định từ hôm mười bảy tháng mười năm ngoái, đến hôm rằm tháng giêng này, rứa là cũng gần tròn ba tháng trời! Nói cho chính xác là kém hai ngày, vị chi tròn một quý! Thật thấm thoát mà không biết mấy biến động! – Chánh sứ nén tiếng thở dài –.
- Bẩm, sự biến Bắc Kì và những cách giải quyết, cũng như quyết định của đức vua, triều thần, ở đây quan chánh sứ, quan tham biện đã nắm rõ và cụ thể. – Phó sứ Nguyễn Văn Tường nói –. Vấn đề còn lại là “hoà” ước, kế tiếp là thương ước. Nhưng tôi thấy hầu như cũng đã thành dạng bản cả rồi!
- Thật ra, thành dạng bản từ hai tháng trước. Ngày hai mươi sáu tháng mười âm (15.12.1873), tướng Dupré đã gửi cho tôi xem xét bản gốc của văn kiện “hoà” ước (169)! Ngày hai mươi ba tháng chạp (09.02.1874) mới đây, ông Prioux đã cùng linh mục Nguyễn Hữu Cư bàn định quy cách “hoà” ước (169). Rồi từ hôm ba mươi tháng chạp (16.02.1874) đến nay, cứ bàn cãi mãi một số điều khoản… Bàn cãi lần cuối cùng để thông qua (169)… Thế đấy, cho đến mấy hôm gần đây nhất, “hoà” ước đã thành dạng bản rồi, nhưng các cố đạo vẫn khiếu nại. Họ muốn tiếp tục bàn thảo thêm về điều khoản liên quan đến họ với việc truyền đạo và về dân giáo (170). Mấy hôm nay, quan phó sứ cũng đã trực tiếp thảo luận đó. Và dẫu sao, thì hai bên cũng đã thông qua… Đôi khi, tôi vẫn lấy làm tiếc về vụ biến Bắc Kì. Nếu chúng ta không cứng rắn, mà mềm dẻo một tí, thì quan khâm mạng Nguyễn Tri Phương không phải tử tiết, và máu không đổ ở ngoài ấy… – Chánh sứ Lê Tuấn chợt rắn giọng –. Nhưng đó là ý nghĩ lúc dao động…
- Đâu phải cả ba chúng ta đây không ai bị dao động! Thú thật, lúc mới nghe báo tin Hà Nội thất thủ, quan Vũ hiển bị thương, bị bắt, phò mã Nguyễn Lâm hi sinh tại trận, Phan Đình Bình, Vũ Đường, Đặng Siêu, Nguyễn Đăng Nghiễm, Phan Tôn, Phan Liêm bị chúng bắt chở vô đây, định đày sang Pháp, tôi cũng hơi dao động thật! Bọn Pháp muốn làm sức ép và chúng đã làm thật, thậm chí chúng còn muốn chiếm đóng bằng quân đội viễn chinh của chúng! Có điều ta không để cho chúng làm được điều ấy. Françis Garnier đã phải đền mạng. Chúng chiến, ta cũng phải chiến. Ta phải chiến đấu mới hoà được! Tình thế chung và tình huống cụ thể bắt buộc phải như vậy. – Phó sứ Nguyễn Văn Tường cố giấu xúc động –. Lưu Vĩnh Phúc đã thực hiện vai trò “hiệp sĩ phi chính phủ” rất tốt. Đó là do tài điều động và sự yểm trợ của thống đốc Hoàng Tá Viêm và tham tán Tôn Thất Thuyết. Tôi đã có dâng sớ xin nhà vua tưởng thưởng, trả chức, phong tước cho ba vị ấy (171).
- Ồ, cả Lưu Vĩnh Phúc? Tôi xin tạt ngang khía cạnh này một chút. Nếu phong chức cho Lưu Vĩnh Phúc, thì ông ta trở thành quan của triều đình Đại Nam thật rồi, làm sao còn đóng vai “hiệp sĩ phi chính phủ” hay “hiệp khách giang hồ hành đạo trừ tà” được?
- Cái khó là ở đấy, nhưng cũng đã được đình nghị xong, tuy chưa công bố. Đơn giản là thế này… Lưu Vĩnh Phúc là người Hoa, nguyên là giặc Cờ đen, mới được Nguyễn Huy Kỷ và Trần Doãn Đạt quy phục, ai cũng biết. Nhưng ta cứ nói với Pháp: “Ông ta cứ chiến đấu chống phỉ và Pháp như một hiệp sĩ ngoài vòng cương toả của triều đình ta. Dẫu triều đình ta có phong chức cho Lưu Vĩnh Phúc để ràng buộc thì ông ta vẫn cứ tính nào tật ấy. Đó là một “hảo hớn” đồng thời là quan của triều đình Đại Nam! Triều đình không thể ứng xử với ông ta như một viên quan thuần tuý Đại Nam…”. Người Pháp không thể trách ta cũng như không thể làm gì Lưu Vĩnh Phúc được.
Phó sứ và tham biện cùng cười khẽ, cảm thấy thật thú vị. Trong khi đó, chánh sứ Lê Tuấn chỉ muốn câu chuyện quay lại vấn đề đang bàn thảo.
Không khí bỗng im ắng một lúc khá dài.
Rót trà ra chén, tay của chánh sứ Lê Tuấn hơi run, một phần vì tuổi già, lại bệnh yếu, một phần khác là do tâm trạng của ông lúc này. Dẫu mọi việc hầu như đã được ước định, chỉ còn chép lại “hoà” ước cho thật sạch đẹp theo quy cách, và đặt bút xuống kí, áp ấn lên mặt giấy nữa thôi, nhưng nào ai trong sứ bộ cảm thấy không buồn!
- So với yêu cầu đặt ra ban đầu, như thế là chúng ta thất bại. So với “hoà” ước Nhâm tuất 1862, chỉ hơn được vài điểm nhưng đã bị kèm theo thương ước thật bất bình đẳng… – Phó sứ Nguyễn Văn Tường hơi trầm tư –. Phải tự nghiêm khắc thấy như vậy. Có điều, tôi vẫn rất tâm đắc với điều khoản Đại Nam ta được mở trường dạy học, lập văn miếu cho sĩ tử tại Nam Kì này. Ta mất đất nhưng quyết không để mất dân tâm! Quan chánh sứ, quan tham biện hẳn cũng đồng ý như tôi, rằng trong thế yếu của nước mình, cũng phải xem việc mở cửa biển, khai thông thương mại với các nước là điều kiện để đua tranh với bốn bể năm châu. Tất nhiên, mở cửa biển, khai thương trong thế nước hùng mạnh, không chịu các điều khoản hiệp ước bất bình đẳng, dân ta đã quen đua tranh với thiên hạ bốn phương, thì yên tâm hơn, ít nguy cơ hơn… Nhưng thế nước suy yếu, biết làm sao được! Trước “hoà” ước này, lại đã có “hoà” ước Nhâm tuất 1862, thật quá bất lợi! Sứ bộ ta vào trận chiến ngoại giao này vào lúc đã quá muộn, thế nước đã bị trói buộc, lại quá suy nhược! Biết làm thế nào được…
- Nhà đã cháy gần hết, chữa được chút nào hay chút ấy. Như vậy cũng là khá rồi… So bì thế nào được với thời đại thắng quân Nam Hán, đánh Tống bình Chiêm, ba lần đánh bại quân Nguyên – Mông vô địch thế giới, thời Nguyễn Ức Trai viết “Bình Ngô đại cáo” ! Tôi đồng ý với quan chánh sứ, quan phó sứ, rằng ta có dao động, và ta cũng chưa đạt mục tiêu ban đầu đề ra (thật ra các mục tiêu ấy quá cao, so với khả năng hiện thực!). – Quan tham biện Nguyễn Tăng Doãn nói –. Biết làm sao được!
- Còn ý kiến của tôi: Phải cố cầm cự thêm một thời gian dài nữa, để chấn chỉnh mọi mặt Đất nước, để học giặc mà đánh giặc… – Phó sứ Nguyễn Văn Tường nói, chợt nhìn quanh, cảnh giác, rồi lại yên tâm –.
- Yên tâm! Đây là Dinh Sứ thần do bọn Pháp xây dựng, nhưng chúng chẳng nghe lén được đâu. Những viên lính tuỳ tùng của sứ bộ ta chỉ lo mỗi một việc cảnh giác bọn Pháp nghe lén, chẳng lẽ không làm tốt sao! – Chánh sứ Lê Tuấn mỉm cười cuối câu nói –.
Chuyện trò thêm một lúc, ba thành viên chính của sứ bộ đi ngủ. Không một ai trong họ không thao thức, đau xót, mặc dù vua Tự Đức, đình thần và cả hoàng tộc đều xem “hoà” ước Nhâm tuất 1874 họ sắp kí kết là một thắng lợi lớn của sứ bộ (172) … Họ hiểu văn kiện “hoà” ước chỉ vài chục trang giấy, nhưng liên quan đến vận mệnh Tổ quốc… Họ phải chịu trách nhiệm trước triều Nguyễn và nhân dân Đại Nam, cũng như với lịch sử thiên thu…
Vào lúc bốn giờ chiều ngày hai mươi bảy tháng giêng năm Tự Đức thứ hai mươi bảy, Giáp tuất (15.03.1874) (173), chánh sứ Lê Tuấn và phó sứ Nguyễn Văn Tường long trọng thay mặt triều đình Vương quốc Đại Nam đóng khuôn dấu toàn quyền đại thần vào “hoà” ước! Song song, bên cạnh, là chữ kí, khuôn dấu của thiếu tướng đề đốc, thống đốc Nam Kì Dupré, người đại diện toàn quyền của Nước Cộng hoà Pháp (173)!
Hai mươi phát đại bác nghi lễ nổ rung trời Gia Định! Đối với sứ bộ và nhân dân, đấy là giây phút sống lại nỗi phẫn uất Nhâm tuất 1862 và Đinh mão 1867!
Chưa trọn hai ngày đêm, vào lúc ba giờ nửa khuya về sáng, trong canh khắc bắt đầu ngày hai mươi chín tháng giêng nguyệt lịch (17.03.1874) (174), chánh sứ Lê Tuấn trút hắt hơi thở tắc nghẹn cuối cùng trước ba vị quan ngự y, những ngự y vốn được nhà vua và triều đình phái đi theo sứ bộ mấy tháng nay. Từ hôm qua, sau buổi tiệc tiễn chân tướng Dupré về Pháp, chánh sứ Lê Tuấn lại ngã bệnh. Có lẽ vì rượu mạnh trong bữa tiệc ngoại giao, nên cổ họng quan chánh sứ lại đột ngột viêm tấy và lồng ngực đầy đờm rãi đặc quánh, khiến ông chết như một người ngạt thở! Chánh sứ Lê Tuấn mất lúc ông mới suýt soát tuổi sáu mươi (174)!
Bốn giờ rưỡi sáng, tại căn nhà ở gần Cầu Ông Lãnh (174), nơi vừa kịp thuê, thi hài quan chánh sứ được khâm liệm, trong nỗi buồn đau, tưởng tiếc của phó sứ Nguyễn Văn Tường, tham biện Nguyễn Tăng Doãn cùng đoàn tuỳ tùng. Lúc ấy, có sự hiện diện của nhiều quan chức Pháp, trong đó có đề đốc kiêm thống đốc Krantz, kẻ mới vừa sang để thay thế Dupré.
Krantz đã cho chiếc tàu thuỷ mang tên Montcalm, đang đậu ở cảng Vũng Chân, chở thi hài chánh sứ Lê Tuấn và toàn thể sứ bộ Đại Nam cùng đoàn tuỳ tùng về kinh đô Huế (174).
Đến Huế, lễ truy điệu trọng thể được tổ chức trước khi tiếp tục chuyển linh cữu chánh sứ Lê Tuấn về với lòng Đất Mẹ quê hương Hà Tĩnh.
Trong hương khói trầm nhang tưởng niệm, phó sứ, tham biện sứ bộ và đoàn tuỳ tùng nghẹn ngào thương tiếc, nhất là khi một viên chức hữu tư Bộ Lễ, phụng chỉ ban tế, đọc điếu văn của chính hoàng đế Tự Đức (172):
“… Việc đánh dẹp phía đông chưa xong, việc đi sứ sang tây lại gấp đến. Ai cũng nói rằng khó kiếm được người, chỉ có dùng người ấy là hơn cả. Ngươi về yết kiến vua chưa được mấy ngày, bấy giờ ngươi đã mang bệnh, ăn uống đã rất kém. Nhưng chỉ nghĩ đến công việc, không bỏ hỏng được, và cái khí tiết không kể đến thân của ngươi, nên trẫm cũng để cho ngươi đi mà luôn ngóng ngươi trở về! Hỡi ơi thương thay! Sao nay chẳng thấy ngươi về! Trẫm với ngươi không phải là thân thích, cố cựu, nhưng riêng khen bụng ngươi giỏi vượt mọi người, nhanh hơn khanh tướng, ngươi đã cương quyết xin đi để báo đáp ơn tri ngộ. Trẫm đương mong tìm được người, cũng trộm lấy làm mừng rằng đã biết được người. Nay bản thảo hoà ước mới xong thì tin báo tang vụt tới, đáng mừng mà hoá ra buồn. Hỡi ơi thương thay! […]
Khi lâm hành, ngươi đã dự lo tất sẽ xảy ra biến cố… […] … Biết […] thương uỷ phó sứ [Nguyễn Văn Tường] kíp về điều đình, rồi ngươi tiến tới (suý phủ Pháp) giảng giải, cuối cùng đã có thể chuyển nguy làm yên.
Ngày nay chiến tranh trở lại giảng hoà, thì công của phó sứ [Nguyễn Văn Tường] tức là công của ngươi vậy. Trẫm đương mong ngươi về mà cùng nhận sự luyến ái hậu tình của trẫm. Ngờ đâu… […] khiến người ta biết bao thương tiếc. Hỡi ơi thương thay!
Vả ngươi chưa tới lục tuần, mắc cái bệnh hầu tì không quan trọng. Trẫm đã không ngại xa xôi nghìn dặm, ban thầy cấp thuốc liên tiếp dọc đường, tưởng rằng cái bệnh vô căn nguyên ấy không thuốc rồi cũng khỏi. Đâu có ngờ ngươi vội từ trần. Hỡi ơi thương thay! […]
[…] Tài đức công nghiệp của ngươi đã có ngòi bút của sử thần. Đây trẫm chỉ ghi lại cái tình tri giao đối với ngươi, gọi là có mấy lời, rót mấy chén rượu, cho trọn cái nghĩa thuỷ chung vua tôi mà thôi. Hỡi ơi thương thay!” (172)
.

11

CƯỠNG ƯỚC “HỮU NGHỊ” GIÁP TUẤT 1874 (175)

“Hoà ước mới định (tất cả hai mươi hai [22] khoản) đã làm xong.
Lời ước rằng: Nay vua nước Đại Nam và vua nước Đại Pháp cần muốn kết lời thề hoà hiếu, hoà thuận bền chặt để cho hai nước được giao thiệp với nhau lâu dài. Nhân đó cùng bàn, [làm] nên định ước mới kết giao, để thay thế điều ước đã định tại ngày mùng chín (09) tháng năm (05) năm Nhâm tuất, Tự Đức thứ mười lăm (15), tức là ngày 05 tháng 06 năm 1862. Cho nên đặc cách phái toàn quyền đại thần để tiện làm việc.
Vua nước Đại Nam đặc cách phái Hình bộ thượng thư, khâm sung định ước chánh sứ toàn quyền đại thần là Lê Tuấn; Lễ bộ tả tham tri, khâm sung định ước phó sứ toàn quyền đại thần là Nguyễn Văn Tường.
Vua nước Đại Pháp đặc cách phái tổng thống Nam Kì, thuỷ lục dân quân đại nguyên soái, ngự tứ đệ nhất đẳng thưởng công bội tinh, tuyên giáo bội tinh, khâm sung định ước toàn quyền đại thần là Du Bi Lê [Dupré].
Hai bên đã chiếu sắc khâm sai toàn quyền, công đồng so sánh, xét duyệt, đều là thoả đáng, sẽ đem điều ước lập ra kê khai như sau:
Khoản thứ I: Từ nay về sau, nước Đại Nam cùng với nước Đại Pháp đời đời kết giao hoà hiếu, tình bạn thực thà.
Khoản thứ II: Vua nước Đại Pháp biết rõ vua nước Đại Nam là giữ quyền tự chủ, không phải theo phục nước nào, nên vua nước Đại Pháp tự hứa giúp đỡ, lại ước định: Như hoặc nước Đại Nam nếu có giặc và nước ngoài đến xâm nhiễu, mà vua nước Đại Nam có [thông] tư xin giúp đỡ, cốt cho dẹp yên, cũng muốn đánh hết giặc biển quấy nhiễu, cướp bóc ở phận biển nước Đại Nam, các phí tổn đều do nước Đại Pháp tự chịu và không đòi trả lại.
Khoản thứ III: Vua nước Đại Nam nên đền đáp tình hứa giúp ấy, ước định: Nếu có giao thông với các nước ngoài, thì phải góp ý với nước Đại Pháp. Nếu từ trước có giao thiệp đi lại thông sứ với nước ngoài nào, nay nên theo như cũ, không nên đổi khác. Duy nước Đại Nam muốn giao thông buôn bán, bàn định thương ước với nước nào, đều được tuỳ tiện; nhưng thương ước ấy không nên trái với thương ước của nước Đại Nam cùng nước Đại Pháp hiện nay đã định. Lại khi nào cùng với nước nào định thương ước ấy, thì báo trước cho triều đình nước Đại Pháp biết.
Khoản thứ IV: Vua nước Đại Pháp ước định cho thêm vua nước Đại Nam các thứ đồ dùng mà không đòi tiền, kê ra sau này:
- Năm (05) chiếc tàu chiến (tàu ấy chiều dài, chiều ngang bao nhiêu, lớn hay nhỏ, sẽ có giấy biên để làm bằng). Sức máy năm (05) tàu ấy thông tính ngang với sức ngựa, ước [chừng] năm trăm (500) [mã lực]. Máy móc, gỗ ván và nồi dẫn nước ở năm chiếc tàu ấy đều là bền chặt và tốt hết cả. Lại các hạng súng ống, vâït liệu kèm theo tàu đầy đủ, y như lệ đồ dùng ở tàu chiến của nước Đại Pháp.
- Về súng lớn: một trăm (100) cỗ. Lòng súng ấy đường kính từ 7 phân đến 1 tấc 6 phân (đều dùng thuốc [súng] của nước Đại Pháp). Mỗi cỗ, thuốc đạn đều hai trăm (200) viên.
- Về súng điểu thương mở bụng: một ngàn cây (1.000). Thuốc đạn năm mươi vạn (500.000) viên.
Các đồ vật trên này, đợi sau khi hoà ước cùng giao cho nhau, hạn trong một năm, đưa đến Gia Định giao cho nước Đại Nam nhận dùng.
Lại như nước Đại Nam có muốn: mượn người nước Đại Pháp dạy lính thuỷ, lính bộ; và các thợ thuyền làm giúp máy móc; cùng người am hiểu thuế lệ, thu giúp thuế buôn bán ở các cửa biển; và người am hiểu tiếng, chữ, kĩ nghệ làm trường để dạy; mua thêm tàu chiến, thuốc đạn, đủ để dùng về việc quân; [nói chung tất cả] các khoản ấy thì nước Đại Pháp đều phải làm giúp cho. Còn như tiền công mượn các người ấy và giá tiền mua thêm tàu và súng, tới khi ấy hai nước cùng định, cần phải thoả đáng với nhau.
Khoản thứ V: Vua nước Đại Nam biết rõ địa hạt nước Đại Pháp hiện được cai trị, tức là sáu (06) tỉnh: Gia Định, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (phía đông giáp biển và địa đầu phía tây tỉnh Bình Thuận nước Đại Nam, phía tây phía nam đều giáp biển, phía bắc giáp nước Cao Miên và địa đầu phía nam tỉnh Bình Thuận nước Đại Nam) đều về quản hạt của nước Đại Pháp, riêng giữ quyền tự hữu.
Duy nước Đại Nam có phần mộ quê ngoại về họ Phạm, họ Hồ, cộng mười bốn (14) sở. Trong đó, họ Phạm mười một (11) sở, ở thôn Tân Niên đông và thôn Tân Quan đông, thuộc tỉnh Gia Định; họ Hồ ba (03) sở, ở thôn Linh Chiểu tây và xã Tân Mai, thuộc tỉnh Biên Hoà. Các mộ ấy, nghiêm cấm các hạng người đều không được xâm phạm. Nước Đại Pháp lại xin trích hai trăm (200) mẫu ruộng đất gần mộ, trong số đó giao cho họ Phạm một trăm (100) mẫu, họ Hồ một trăm (100) mẫu, để làm nhu phí vâng giữ các phần mộ. Còn như ruộng đất ấy và nhân đinh họ Phạm, họ Hồ, nước Đại Pháp đều miễn trừ đi lính, đi phu và các thuế đinh, thuế điền.
Khoản thứ VI: Chiểu theo điều ước cũ năm Nhâm tuất (1862), nước Đại Nam còn thiếu tiền bồi thường cho nước Đại Pháp một trăm vạn (1.000.000) đồng bạc (mỗi đồng bạc nặng 07 đồng cân 02 phân). Nay được bỏ hết, không đòi hỏi nữa.
Khoản thứ VII: Nguyên điều ước cũ năm Nhâm tuất (1862), nước Đại Nam còn thiếu tiền bồi thường cho nước Y Pha Nho (Tây Ban Nha) một trăm vạn (1.000.000) đồng bạc (mỗi đồng bạc nặng 07 đồng cân 02 phân). Vua nước Đại Nam ước định trả cho triều đình nước Đại Pháp để chuyển giao cho nước Y Pha Nho, [nhưng] phải đợi [từ] ngày nào nước Đại Nam chiểu thu thuế quan các cửa biển đã mở cho các nước Tây dương và Tân thế giới thông thương. Mỗi năm thu được bao nhiêu, trừ số chi phí trong một năm ra, hiện còn bao nhiêu, [thì] chia làm hai thành [:02 phần], trích lấy một thành, bồi [đắp] vào số bạc thiếu ấy. Mỗi năm bồi [thường] bao nhiêu, giao cho nguyên soái nước Đại Pháp ở tỉnh Gia Định biên nhận, chuyển giao cho nước Y Pha Nho, lấy giấy biên nhận của nước ấy, giao cho nước Đại Nam làm bằng. Nhưng không kể là mấy năm, năm nào bồi [thường] xong thì thôi.
Khoản thứ VIII: Người nước Đại Nam có giúp nước Đại Pháp việc gì hoặc [người] nước Đại Pháp có giúp nước Đại Nam việc gì, tự phản bội nước mình mà có can phạm pháp luật của nước, phải tịch biên gia sản, thì từ khi đã định hoà ước trở về trước, vua nước Đại Pháp và vua nước Đại Nam đều khoan tha, cho trả lại gia sản. Duy gia sản ấy đã từng bán đi, không còn ở nhà nước nữa, không phải trả về.
Khoản thứ IX: Vua nước Đại Nam biết rõ Đạo Thiên chúa nguyên để khuyên người làm điều lành. Nay đem các giấy tờ cấm Đạo Thiên chúa từ trước bỏ hết đi. Lại cho phép người nước Đại Nam có muốn theo đạo và giữ đạo, đều được thong dong tự tiện. Vì thế, người theo giáo trong nước đều được tuỳ tiện các việc hội nhau đọc kinh, lễ bái, không kể số người, người ngoài [đạo] không được vin cớ bức bách dân theo Đạo Thiên chúa làm việc gì trái phép đạo và không bắt giáo dân khai riêng sổ sách. Từ nay về sau, giáo dân ấy đều được đi thi, ra làm quan, mà chớ bắt phải trái phép đạo.
Vua nước Đại Nam ước định:
Đem sổ riêng từ trước bỏ đi tất cả, còn sổ sách binh đao, thuế khoá, phàm các việc đều cùng giống như nhân dân. Và cấm từ nay về nói năng, giấy tờ, không nên lại dùng chữ nào, câu nào có làm nhục đến Đạo Thiên chúa, cùng là trong mười điều [mười điều răn? Thập điều diễn nghĩa?], nếu có những chữ, những câu như thế, cũng đều chữa lại.
Giám mục, linh mục nước Đại Pháp đến ở nước Đại Nam để giảng đạo, người nào hễ trình có giấy thông hành của nguyên soái nước Đại Pháp ở Gia Định cấp cho, có đủ Bộ Lễ hoặc quan tỉnh của nước Đại Nam đóng ấn, phê chữ “dĩ trình”, mới được vào trong nước Đại Nam, và tuỳ tiện đi lại ở trong địa phận thuộc về giám mục ấy, tự do giảng đạo, chớ nên phân biệt, bắt phải quản thúc; còn có ra đi, không trở lại, [thì] sức [:truyền lệnh] cho các xã thôn sở tại khai báo như trước. Linh mục nước Đại Nam giảng kinh truyền giáo, cũng như linh mục nước Đại Pháp.
Nếu linh mục nước Đại Nam có phạm tội, phải phạt đánh roi, đánh trượng, thì nên chiểu lệ cho lấy tiền chuộc thay, không nên thực hành đánh roi, đánh trượng. Giám mục, linh mục nước Đại Pháp và linh mục nước Đại Nam đều được thuê mua ruộng đất làm đạo đường, đạo quán, nhà dục anh, nhà dưỡng bệnh và các nhà thuộc về truyền giáo.
Và giáo dân ấy trước can phải giam, đi an trí, gia sản đã bị tịch biên, nay nếu hãy còn ở nhà nước, thì nên giao trả cho giáo dân ấy nhận lấy; nếu đã bán mất rồi, không còn ở nhà nước nữa thì thôi.
Các khoản trên đây thì giám mục, linh mục nước Y Pha Nho cũng đều nhờ ơn như thế cả.
Sau khi hoà ước này cùng giao cho nhau [:sau khi vua, quốc trưởng phê chuẩn, sẽ hỗ giao], nên ban sắc dụ xuống bá cáo cả nước cho dân xã đều biết vua nước Đại Nam đã rộng ban ơn huệ, chuẩn cho giáo dân được tự do theo đạo như thế.
Khoản thứ X: Nước Đại Nam đều có làm trường học ở thành Gia Định để tiện dạy học trò, thì có quan Bộ Lại của nước Đại Pháp ở Gia Định trông nom giúp cho. Trong trường học ấy không được giảng dạy việc gì có trái phong hoá và trái quyền của nước Đại Pháp. Như [ng; chẳng hạn] có làm đền miếu tế tự [hoặc] việc gì [tương tự] đều cho tuỳ tiện. Nếu giáo sư ấy có trái khoản ấy thì phải giao trả [ông ta cho] nước Đại Nam, hoặc có làm việc gì nặng hơn việc ấy, thì trường ấy cũng phải thôi không đặt nữa.
Khoản thứ XI: Cửa biển Thị Nại tỉnh Bình Định cùng cửa biển Ninh Hải tỉnh Hải Dương của nước Đại Nam, và [đường thuỷ] từ cửa biển ấy ngược lên một dải sông Nhị Hà suốt đến địa phận tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh, và phố Hà Nội, thì triều đình nước Đại Nam nên mở cho người Tây dương và người các nước Tân thế giới thông thương buôn bán. Sẽ định thương ước kèm với hoà ước này. Về điều khoản thông thương mới bàn định cũng chiểu điều ước này tuân theo một thể. Trong đó, cùng cửa biển Ninh Hải, cùng phố Hà Nội, và theo sông Nhị Hà suốt đến địa phận tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh, thì nên đợi khi điều ước này cùng giao cho nhau [:hỗ giao], nên định ngày nào khai trương làm tiện, tới khi ấy do hai nước bàn định. Duy cửa biển Thị Nại tỉnh Bình Định, phải đợi sau khi cùng giao cho nhau [:hỗ giao hoà ước] một năm thì đem khai thương. Còn như các cửa biển, các sông, đợi sau này buôn bán, nếu có phồn thịnh, ích lợi, thì sẽ [để] cho nước Đại Nam nghĩ định làm việc.
Khoản thứ XII: Các người Đại Pháp và thuộc địa cùng các nước Tây dương và Tân thế giới, người nào hễ tuân theo luật lệ nước Đại Nam, phải được ước định khai thương ở các cửa biển, mua đất làm nhà, tuỳ ý buôn bán và đặt làm máy móc kĩ nghệ ở nước Đại Nam, nhưng phải nhờ quan nước Đại Nam chỉ định xứ sở, không được lẫn lộn. Trong đó chỗ đất ở, hoặc đất công hoặc đất tư, chiểu giá thuận mua, và cả nhà ở, thuế lệ phải nộp là bao nhiêu, thì chiểu lệ định đưa nộp cho quan nước Đại Nam. Các người đi buôn cho phép được thông hành [:đi lại thông suốt] buôn bán từ cửa biển Ninh Hải suốt lên sông Nhị Hà cho đến tỉnh Vân Nam. Về thuế lệ thuyền và thuế hàng hoá là bao nhiêu, cũng chiểu lệ đưa nộp cho quan nước Đại Nam. Còn như từ cửa biển Ninh Hải theo sông Nhị Hà đến Hà Nội, lại từ Hà Nội suốt đến tỉnh Vân Nam, các chỗ cạn ở ven bờ sông, người Tây đều không được buôn bán. Người các nước trên đây đều được tuỳ tiện thuê mượn người nước Nam làm giúp các hạng tài phó, thông ngôn, thư kí, thợ thuyền, phu chèo thuyền, làm công việc trong nhà.
Khoản thứ XIII: Nước Đại Pháp được tiện đặt lãnh sự hoặc một viên chuyên làm việc ở các cửa biển đã khai thương ở nước Đại Nam, mỗi sở mang theo quân cốt đủ để sai phái, nhưng không được quá số một trăm tên, để tiện tự vệ và tuần phòng canh giữ, cho khỏi người các nước sinh sự. Đợi khi nào yên ổn, không ngại gì, thì lãnh sự ở lại làm việc, quân lính mang theo rút về hết cả.
Khoản thứ XIV: Người nước Đại Nam cũng được các khoản đi lại, để buôn bán và mua đất làm nhà ở tại nước Đại Pháp và các thuộc địa. Duy phải tuân theo luật lệ nước Đại Pháp. Nếu vua nước Đại Nam muốn đặt lãnh sự ở các cửa biển, các phố ở nước Đại Pháp và các thuộc địa, để tiện coi giữ người nước mình, [thì] đều được tuỳ tiện.
Khoản thứ XV: Người đi buôn của nước Đại Pháp và các thuộc địa cùng các nước khác, muốn đến nước Đại Nam khai thương ở các cửa biển, ở để buôn bán, phải kê khai tên và quê quán, trình nộp ở quan nước Đại Pháp. Quan nước Đại Pháp sẽ chuyển [thông] tư cho quan nước Đại Nam biết. Dân nước Đại Nam muốn đến nước Đại Pháp và các thuộc địa ở để buôn bán, cũng chiểu theo như thế mà làm. Nếu người đi buôn của nước Đại Pháp và các nước khác muốn đi lại xứ khác trong nước Đại Nam có việc gì, phải có giấy thông hành [:đi lại thông suốt] của quan nước Đại Pháp cấp cho, và quan nước Đại Nam thuận phê chữ “dĩ trình” mới được thông hành. Nhưng cấm không được buôn bán vật hạng dọc đường. Nếu trái lệnh cấm thì hàng hoá của người ấy do quan sở tại nước Đại Nam tịch thu hết. Nhưng hiện nay sĩ dân trong nước Đại Nam còn giữ lòng nọ kia, chưa yên lặng hết, thì người nước ngoài chưa tiện thông hành [:đi lại thông suốt]. Nên đợi ngày nào quan nước Đại Nam cùng quan khâm sứ nước Đại Pháp bàn xét hiện tình, quả đã yên ổn, mới có thể cấp giấy cho đi. Và người nước Đại Pháp muốn đến xứ nào trong nước Đại Nam tìm học bác vật, cũng phải [thông] tư cho quan nước Đại Nam biết. Vì người ấy có ý du học, tất phải giữ gìn [:bảo vệ] cho và cấp giấy tờ đầy đủ giúp cho người ấy được tiện đi lại, thông hành tìm học.
Khoản thứ XVI: Người nước Đại Pháp kiện nhau hoặc kiện với người nước khác, đều do quan lãnh sự nước Đại Pháp xét xử. Người nước Đại Pháp với người nước khác kiện nhau với người nước Đại Nam, hoặc xin bày tỏ việc gì, phải trước hết do quan lãnh sự nước Đại Pháp hết sức giữ công bằng phân xử, cốt cho ổn thoả. Nếu có khoản gì trở ngại, quan nước Đại Pháp [ở] thế khó xử đoán một mình được, tức phải [thông] tư xin quan nước Đại Nam hội đồng làm giúp. Quan hai nước xét xử đã được công bằng, thì đôi bên đều phải tuân theo. Người nước Đại Nam kiện nhau với người nước Đại Pháp hoặc người nước khác, phải trước hết do quan Đại Nam hết sức giữ công bằng phân xử, cốt được ổn thoả. Nếu có khoản gì trở ngại, quan nước Đại Nam [ở] thế khó xử đoán một mình được, tức phải [thông] tư xin quan nước Đại Pháp hội đồng làm giúp. Quan hai nước xét xử đã được công bằng, thì đôi bên đều phải tuân theo. Còn người nước Đại Pháp kiện nhau hoặc kiện với người nước khác, đều chuyên do quan nước Đại Pháp xét xử
[Lưu ý: trong điều khoản XVI này, câu cuối lặp lại câu thứ nhất].
Khoản thứ XVII: Người nước Đại Pháp và người nước khác đến địa hạt nước Đại Nam mà phạm tội thì phải giao về các toà ở Gia Định xét xử. Nếu người phạm tội ấy trốn tránh ở địa phận nước Đại Nam, phải [thông] tư cho quan nước Đại Nam nã bắt, thì quan nước Đại Nam cũng phải hết sức dò bắt giao cho quan nước Đại Pháp nhận để làm việc. Nếu người nước Đại Nam đến địa phận nước Đại Pháp mà phạm tội, thì quan nước Đại Pháp chiểu luật lệ nước ấy xét xử, nhưng [thông] tư cho quan lãnh sự nước Đại Nam biết để theo lệ tra xét.
Khoản thứ XVIII: Phàm có giặc ở địa phận nước Đại Pháp, như có phạm các tội làm loạn và trộm cướp, mà trốn [đến] địa hạt nước Đại Nam, [khi đã] được quan nước Đại Pháp [thông] tư cho quan nước Đại Nam biết, thì quan nước Đại Nam tức khắc phải hết sức dò bắt, giao cho quan nước Đại Pháp xét xử.
Nước Đại Nam có giặc phạm các tội làm loạn và trộm cướp, mà trốn đến địa hạt nước Đại Pháp, [khi đã] được quan nước Đại Nam [thông] tư cho quan nước Đại Pháp biết, thì quan nước Đại Pháp cũng phải hết sức dò bắt, giao cho quan nước Đại Nam xét xử.
Khoản thứ XIX: Người nước Đại Pháp và người nước khác có chết ở địa hạt nước Đại Nam, người nước Đại Nam có chết ở địa hạt nước Đại Pháp, thì gia sản người chết ấy phải giao cho con cháu người ấy [nhưng là người con cháu nào theo luật định] đáng được hưởng. Nếu hiện tại không có người đáng được hưởng, thì gia sản người chết ấy đều phải giao cho quan nước ấy [để] chuyển giao cho thân thuộc của người chết ấy ở trong nước nhận lấy.
Khoản thứ XX: Từ ngày quan đại thần hai nước định hoà ước đã kí tên, đóng ấn trở về sau, đợi đủ một năm, vua nước Đại Pháp đặc cách phái một người được sung làm quan khâm sứ hạng nhì đến ở kinh đô nước Đại Nam để tiện theo giữ các khoản đã định trong hoà ước. Chức trách phải làm của quan khâm sứ ấy là khiến cho hai nước tình giao hiếu thường hoà, nghĩa bạn càng hậu. Vua nước Đại Nam nếu muốn đặt quan khâm sứ đến ở kinh đô nước Đại Pháp, cũng theo như thế mà làm việc. Duy phẩm trật, nghi chế của quan khâm sứ ấy, phải đợi hai nước bàn định, cốt được tương đương. Còn bổng lệ của quan khâm sứ ấy và các hạng chi phí, phải do các nước ấy chiểu cấp.
Khoản thứ XXI: Nay ước mới này được đem thay thế điều ước cũ năm Nhâm tuất (1862) trước. Nước Đại Pháp lại muốn chuyển nói với nước Y Pha Nho, cùng theo giữ ước mới này mà bỏ ước cũ đi. Nếu hoặc nước Y Pha Nho không chịu thay đổi các khoản ước cũ, thì ước mới ấy nước Đại Pháp và nước Đại Nam đều cùng theo giữ, mà khoản nào ở ước cũ là thuộc nước Y Pha Nho cùng nước Đại Nam đã định, đều phải theo như cũ. Duy khoản nước Đại Nam còn thiếu tiền bồi thường cho nước Y Pha Nho, thì nước Đại Pháp tự nhận bồi thay. Nước Đại Nam lại chiểu khoản thứ VII trong điều ước mới trả dầân nợ bạc ấy cho nước Đại Pháp đủ số.
Khoản thứ XXII: Nay ước mới đã định, thì hai nước cùng nhau cùng giữ ước ấy, đời đời chớ trái. Đủ một năm hoặc chưa tới một năm, đợi vua nước hai nước phê chuẩn, thì đem đến kinh thành nước Đại Nam cùng giao cho nhau để lưu chiểu. Khi việc đã xong, lại đem hoà ước ấy đều tuyên bố ở trong nước, khiến cho đều biết cả. Và ước mới ấy đã làm bốn (04) bản, toàn quyền đại thần hai nước cùng nhau so sánh, phù hợp, phải kí tên, đóng ấn vào.
Hoà ước trên này bàn định ổn thoả ở Phủ Nguyên soái, thành Gia Định, niên hiệu biên ngày ta là ngày hai mươi bảy (27) tháng giêng năm Tự Đức thứ hai mươi bảy (27), lịch dương lịch là ngày 15 tháng 03 năm 1874”.


13

HỊCH KÊU GỌI KHỞI NGHĨA CỦA VĂN THÂN (176)

“Đây, các bạn, lời thề của chúng ta!
Chúng ta đồng đứng lên chống kẻ thù chung!
Nhà nho chúng ta, theo truyền thống đấu tranh cao quý, chúng ta tạm gác bút nghiên để cầm lấy khí giới.
Hôm nay, hỡi các bạn, hãy chiến đấu cho Công lí!
Hãy quyết tâm ra bãi chiến trường.
Công lí ở về phía ta. Chúng ta thề tử chiến với kẻ thù, thực hiện các nguyện vọng cao quý của chúng ta.
Chúng ta có lẽ phải, cho nên chúng ta là người bất khả chiến bại. Khi chúng ta đứng lên, Công lí của chúng ta sẽ được tô điểm bởi một trận thắng vẻ vang!
Than ôi! Mối đạo giả dối của Gia Tô đã vào nước chúng ta.
Kinh cầu nguyện của chúng chiêm ngưỡng chúa [Nhi Nhu (Jésus)] và các vị thánh.
Bọn đui! Bọn điếc! Bọn ngu!
Các chủ thuyết của chúng dạy rằng không có cha cũng không có vua trên đời này.
Bọn chó! Bọn dê cừu!
Lời biện bác của chúng đều vô lí và xuyên tạc.
Thái độ của chúng khiêu khích và phách lối!
Từ năm 1858, những đau khổ đã đến với Đất nước chúng ta và đang tàn phá.
Xưa kia, tiên nho chúng ta đã khuyên dân chúng chiến đấu và thú dữ bị buộc phải thôi gào thét. Tổ tiên chúng ta đã quyết tâm phục vụ các phán quyết của hoàng đế.
Nào ai có thể chịu dùng giải pháp tạm thời để tránh những phiền toái?
Chúng ta hãy nhớ các quan nhà Tấn (265 – 420) vì tranh giành quyền lợi làm cho tổ quốc suy tàn. Các đại thần nhà Tống (960 – 1276) phá rối trị an và gây ra những rắc rối chính trị. [Thừa cơ,] bọn rợ từ phương tây [của Trung Hoa] rốt cuộc xâm chiếm và lấy nửa phần đất nước; nhà Tống buộc phải kí kết một hiệp ước nhục nhã để chấm dứt tranh chấp. Không có võ quan nào can đảm đứng ra dẹp bọn đại thần. Cho nên bọn rợ vào nước và dân lành buộc phải sống chung với chúng.
Than ôi! Bọn mọi rợ đang sống trong Đất nước chúng ta.
Xấu hổ biết bao! Nhục nhã biết bao!
Không người dân nào trong sáu tỉnh [Nam Kì] là thủ phạm. Họ ở xa triều đình và bị gán cho một tội mà họ không có trách nhiệm. Vậy thì ai chịu trách nhiệm gây sự đau khổ cho dân?
Vũ trụ đầy tiếng kêu cứu và tiếng khóc than đau khổ của người dân. Họ mất sự vui sống và chìm đắm trong cảnh nghèo khổ. Các nhân sĩ, ngoài [Bắc Kì] kia, có đạo đức và nguyện vọng cao quý, nhưng không làm gì được: xa hoàng đế và ở trong cảnh chịu tối, chịu rét. Cha già của họ đã mất hi vọng cuối cùng là con mình ngày sau làm quan.
Điều tệ hại là chúng ta để kẻ thù của chúng ta làm hại càng lâu, dân chúng chịu thiệt hại càng nhiều, và chúng đòi chúng ta khoản “bồi thường” càng lớn.
Trên mặt thực tế, chúng đã chiếm đoạt những vùng đất phì nhiêu, nơi đó chúng đã xây cất “chùa chiền” [đúng hơn, ấy là “giáo đường”] của tà đạo.
Trên mặt đạo đức, chúng đã cố sức đầu độc Đất nước chúng ta để biến thành một nước Thiên Chúa giáo.
Chúng xem các ông cha bà mẹ của giống nòi chúng ta như heo chó.
Chúng làm nhục đạo đức Khổng giáo chúng ta.
Chủ thuyết của chúng đặt lợi ích trên hết.
Ngôn từ của chúng xúc phạm liêm sỉ.
Đó là trò cười tột độ.
Chúng làm bất cứ gì, bất kể thế nào.
Chúng ta cứ để chúng làm thế hoài sao?
Để chống nguy cơ, phải nhổ càng sớm càng tốt những mầm xấu có thể sản sinh sau này không ít kẻ thù. Nếu chúng ta mở cửa cho kẻ thù, tất cả sẽ mất hết. Vậy nên phải tận diệt chúng để khỏi hối hận về sau.
Chúng tôi kêu gọi sự tham gia cao quý của các bạn.
Nếu ở vào thời thái bình, các bạn sẽ được hưởng thụ những truyền thống tốt của chúng ta: một chức quan ở triều đình với tước công hầu; hoặc các bạn thi cử đỗ đạt và được danh dự có tên trong danh sách trúng tuyển; hoặc được chính phủ cấp dưỡng để học hành, nhận được lương thực và áo gấm do hoàng đế ban cho; hoặc các bạn là sĩ tử của các kì thi tuyển.
Dù cách nào, dù các bạn hiện là: phú hộ, cai tổng, lí trưởng, nhân sĩ, thân hào – tất cả đều hưởng đặc ân của hoàng đế. Cho nên chúng ta có bổn phận vì hoàng đế mà cầm khí giới trừng phạt kẻ thù.
Khổng tử nói: “kiến nghĩa bất vi vô dũng giã”.
Nay là thời kì chiến đấu. Chúng ta cần người trung thành, kiên quyết và nghĩa khí. Hãy đoàn kết và tổ chức thành đội ngũ. Hãy tước đoạt tất cả phương tiện quân thù dùng để xâm nhập nước ta. Như thế bọn rợ Phương Tây sẽ mất hết các cơ sở hành quân trên Đất nước.
Hãy trông gương của Lý Cương đời Tống. Ông đã lìa Triều đình đòi đánh với kẻ thù. Đáp lời kêu gọi của ông, các học sinh Quốc tử giám đã cầm lấy khí giới. Hoàng đế bắt tội ông và giam vào ngục. Hành động anh hùng của ông khiến học sinh và con cái nhà nho nổi dậy.
Biến động hiện nay liên hệ đến sự mất còn của Đất nước. Không có chỗ cho quyền lợi riêng tư. Chúng ta đồng một lòng nhận xét như thế. Nếu các bạn, những người trung nghĩa, các bạn không tham gia vào cuộc chiến đấu oanh liệt vì Tổ quốc, Trời cao không khi nào dung tha các bạn. Chúng ta không sợ chết.
Dù chúng ta chưa nhận được sắc dụ cho phép, dù chúng ta có thể bị hoàng đế kết tội, cũng không đáng kể: Phải hành động! Chúng ta sẽ xin phép hoàng đế sau này. Dù thế nào, chúng ta cũng sẽ tiêu diệt được chúng, chúng ta ít ra cũng sẽ trở thành anh hùng dân tộc.
Không cần phải mắng nhiếc kẻ thù. Điều phải làm là hành động! Hãy theo về với chúng tôi! Hãy suy nghĩ kĩ đi.

Ngày mùng hai tháng hai,
năm thứ hai mươi bảy triều Tự Đức
(ngày 19.03.1874)”.


Lời hịch được tung ra, sau khoảng hai mươi ngày, kể từ giờ phút cuộc khởi nghĩa văn thân Nghệ – Tĩnh bùng nổ.
Hai vị lãnh đạo là tú tài Trần Tấn và học trò của ông, người cũng đã đỗ tú tài: Đặng Như Mai. Hai thầy trò đều là người huyện Thanh Chương, thuộc tỉnh Nghệ An (177). Trong những năm trước, sau khi Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp kí kết “hoà” ước Nhâm tuất 1862 với Pháp, họ đã kịch liệt chống đường lối nghị “hoà”. Lãnh đạo một số người, Trần Tấn và Đặng Như Mai đã tấn công, đốt phá nhiều giáo đường “tả đạo” tại quê hương xứ Nghệ. Để ổn định tình hình chính trị, và do sự kiện cáo của các giám mục, linh mục thực dân Pháp như Gauthier (Ngô Gia Hậu), Croc (Phê Chính Hoà), cả hai thầy trò đều bị quan quân triều đình bắt giam. Xét thấy Trần Tấn và Đặng Như Mai đều nặng lòng yêu nước, căm thù giặc Pháp sâu sắc, đặc biệt là họ cực kì thù hận “tả đạo” Thiên Chúa giáo, nên họ được triều đình phóng thích (177). Lòng căm hận “tả đạo”, tất nhiên trong số “tả đạo” ấy có cả Nguyễn Trường Tộ, người đồng hương với họ, hầu như không bao giờ nguôi. Sau khi được thả về quê, hai thầy trò viết thơ văn tiếp tục công kích “tả đạo” Thiên Chúa giáo, một tôn giáo đã bị thực dân hoá, trở thành công cụ tâm linh để phục vụ cho việc giành dân, cướp nước của Phương Tây (177).
Trừ những vùng giáo dân phía tả ngạn sông Hồng, dưới sự quản lí của các cố đạo Tây Ban Nha, hầu như các giáo xứ Đàng Ngoài thuộc cố đạo Pháp đều trở thành tay sai của Françis Garnier! Đến nay, sau cuộc gây rối và đánh chiếm Hà Nội cùng các tỉnh trung châu Bắc Kì của Jean Dupuis, Françis Garnier, cuộc “sát tả” ngoài Bắc đã nổ ra và thổi bùng ngọn lửa căm uất “tả đạo” tại điểm nóng Nghệ An – Hà Tĩnh. Chính trong thời điểm Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định thất thủ, bản chất của giáo dân “tả đạo”, bọn “giậu đổ bìm leo”, kể cả những kẻ mượn chiêu bài “phù Lê”, có dịp bộc lộ một cách trắng trợn. Bản chất phản quốc, tay sai của những tên được Françis Garnier phong chức sắc để làm nô bộc cho y, như tên ngụy tổng đốc Trương chẳng hạn, cũng là bản chất của một vạn hai (12.000) tên “lính bản xứ” đốn mạt.
Không phải ngẫu nhiên có mối liên quan giữa cuộc “sát tả” Bắc Kì với cuộc khởi nghĩa văn thân Nghệ – Tĩnh. Bọn cố đạo thực dân Bắc Đàng Ngoài tại Hà Nội như giám mục Puginier, rõ ràng đã câu kết với Jean Dupuis, góp vốn cho y đến tám ngàn quan để buôn súng theo mục đích chính trị xâm lược (178), và câu kết với Françis Garnier trong việc tuyển mộ giáo dân làm “lính bản xứ” (178). Cũng không ai không biết, chính giám mục Gauthier (Ngô Gia Hậu) thuộc giáo phận Nam Đàng Ngoài (các tỉnh bắc hữu kì) cũng chẳng khác gì. Bức thư Jean Dupuis trả lời giám mục Gauthier trong việc câu kết “buôn súng”, trước đây đã được tổng đốc An – Tĩnh Tôn Thất Triệt bắt được (179). Triều đình đã cho sao bản dịch bức thư ấy ra để phổ biến cho các quan, nhất là quan khâm mạng Nguyễn Tri Phương, hiểu rõ và tìm cách đối phó (179).
Nếu ở Bắc Kì, có đến một vạn hai (12.000) tên “lính bản xứ” lộ mặt, thì ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Quảng Bình cũng không ít hơn, nhưng ở dạng tiềm ẩn, chuẩn bị! Do đó, phong trào “sát tả” ở các tỉnh hữu kì, kể cả tỉnh hữu trực kì Quảng Bình, không thể không nổ ra!
Đến lúc này, hiện thực là lửa và máu. Lửa đã cháy trên bao ngôi nhà dân lương, dân giáo, đều là người Việt. Máu đã đổ từ bao người dân, dù lương hay giáo, cũng là người Đại Nam. Gọi cho thật chính xác, đây là cuộc nội chiến lương – giáo Nghệ – Tĩnh. Trong khi đó, không có một tên lính Pháp viễn chinh bỏ mạng, không một cố đạo Tây dương thực dân nào bị thương tích. Bọn Pháp cầm súng hay cầm thập giá xâm lược đã thành công trong việc xúc xiểm hai phía lương – giáo, chúng đang khoái trá trong cuộc nội chiến đau lòng này!
Bi kịch lương – giáo, nói rõ ra là xung đột giữa một bên là Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo và chủ yếu là đạo thờ cúng tổ tiên, anh hùng dân tộc lâu đời của người Việt với một bên kia, là Thiên Chúa giáo câu kết với thực dân Pháp, Tây Ban Nha. Bi kịch ấy đã thành nội chiến!
Triều đình Huế cũng đang rơi vào bi kịch!
Trước “hoà” ước Nhâm tuất 1862, vua Tự Đức và đình thần, biên thần cùng bao sĩ phu khác trên Đất nước cũng chủ trương “bình Tây sát tả”, đâu khác gì hai thầy trò tú tài Trần Tấn, tú tài Đặng Như Mai! Có điều, “bình Tây” vẫn phải là nhiệm vụ tiên quyết, và “sát tả” phải đi đôi với “bình Tây”. Đánh giặc ngoài vẫn phải là mục tiêu hàng đầu; tiêu diệt, khống chế thù trong tuy là mục tiêu song song, nhưng vẫn thứ yếu.
Sau “hoà” ước Nhâm tuất 1862, nhất là giai đoạn này, vua Tự Đức đã bước sang đường lối tiến hành “sách lược thoả hiệp tạm thời” (180) với thực dân Pháp và cả với “tả đạo” Thiên Chúa giáo! Trước tình thế Bắc Kì như vậy, đành phải đối phó một cách bất đắc dĩ như thế. Tuy nhiên, hai thầy trò Trần Tấn và Đặng Như Mai lại tung ra lời hịch với mục tiêu “sát tả”, xem “sát tả” là mục tiêu, nhiệm vụ tiên quyết (181). Không hề thấy nghĩa quân dưới sự lãnh đạo của hai lãnh tụ khởi nghĩa văn thân Nghệ – Tĩnh tấn công vào bọn Pháp mà họ thương gọi là “bạch quỷ”, “bọn mắc bệnh bạch tạng”, bọn mắt xanh mũi lõ viễn chinh, mà chỉ nhắm vào dân ngụy theo “tả đạo” và đốt phá giáo đường, chủng viện Thiên Chúa giáo.
Không thể nói hai lãnh tụ Trần Tấn, Đặng Như Mai không yêu nước, không trung thành với triều Nguyễn. Nhưng quả thật, họ trung quân ái quốc theo cách suy nghĩ của riêng họ! Trung quân ái quốc là đúng, nhưng trung quân ái quốc như thế nào lại là vấn nạn lớn. Vấn đề là ở đó!
Và vấn đề là triều Nguyễn đang rơi tuột vào bi kịch một cách đau lòng! Cả vua Tự Đức và quan lại đều thấm thía bi kịch đó, và đều muốn thoát khỏi, nhưng không cách nào khác!
Đến cuối tháng hai nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ hai mươi bảy, Giáp tuất (1874), Trần Tấn và Đặng Như Mai đã bị quan quân của tổng đốc An – Tĩnh Tôn Thất Triệt, tổng thống Hồ Uy (Oai), tham tán Chu Đình Kế đánh tan, phải chạy lên miền núi (182). Mặc cho gươm súng của lực lượng quân binh chính quy thuộc triều đình và bao lời hiểu thị, thuyết phục của toản tu người Hà Tĩnh Đặng Văn Kiều, mặc cho sự thất bại của hai lãnh tụ Trần Tấn, Đặng Như Mai, nhân dân Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá vẫn hưởng ứng lời hịch khởi nghĩa văn thân. Đầu tháng ba nguyệt lịch, Trần Quang Cán phối hợp với Trần Tấn, Đặng Như Mai tấn công, chiếm giữ được đến tám (08) phủ huyện Nghệ – Tĩnh. Trong cuộc khởi nghĩa này, có vai trò thủ lĩnh nổi bật của Nguyễn Huy Điển (tú tài Khanh, người Hà Tĩnh) và Trương Quang Thủ (đội Ngọc, người Mường ở Quảng Bình) (182).
Thượng thư Lê Bá Thận lập tức được sung làm khâm sai đại thần, cầm quân tiến ra Nghệ – Tĩnh. Liền sau đó, Vũ Lã, Nguyễn Văn Thuý, Trần Văn Chuẩn, Đỗ Đệ đều được sắc dụ tiến ra phối hợp (183).
Tình hình rất căng thẳng, chưa giải quyết được. Mới tính trong những ngày tháng hai nguyệt lịch, đã có đến hơn một ngàn (1.000) dân giáo bị giết chết (184)! Vì vậy, các quan tỉnh Tôn Thất Triệt, Phạm Hy Lượng, Nguyễn Đôn liền bị cách chức. Kinh lược sứ Bắc Kì Nguyễn Chính (Chánh) lại được lãnh tổng đốc An – Tĩnh; sung hiệp thống đại thần kiêm nhiếp bố chính sứ Thái Nguyên Vũ Trọng Bình được điều động vào, lãnh tuần phủ Nghệ An (185).
Mới ở Nam Kì ra, vào đầu tháng năm, Giáp tuất (1874), phó sứ Nguyễn Văn Tường liền được thăng thượng thư Bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần, tước hiệu Kì Vĩ bá (186). Dịp này, Trần Tiễn Thành cũng được thăng Văn Minh điện đại học sĩ (bậc thứ hai trong tứ trụ) nhờ có công trong việc tiến cử Nguyễn Văn Tường để thương thuyết lấy lại bốn tỉnh Bắc Kì những tưởng mất hẳn vào tay Pháp (hoặc, bốn tỉnh Bắc Kì có lấy lại được cũng không thể lấy lại một cách khôn khéo như thế, nếu là người khác chứ không phải Nguyễn Văn Tường đảm trách) (186). Và vào trung tuần tháng ấy, phó sứ Nguyễn Văn Tường liền được sung làm khâm sai, đến Quảng Bình làm tham mưu cho quân thứ của Lê Bá Thận, với tư cách thượng thư Bộ Hình (187). Đó là cánh quân phía nam.
Bấy giờ, cuộc nội chiến lương – giáo Nghệ – Tĩnh đã lan rộng vào Quảng Bình, lan rộng ra Thanh Hoá, máu lửa đỏ rực đất trời bốn tỉnh, đường giao thông và đường trạm hoàn toàn bị nghẽn. Quân binh cánh phía nam tìm cách tiến quân trên thượng đạo (vốn do Nguyễn Văn Tường đề xướng và phối hợp chỉ đạo xây dựng), để phối hợp với cánh quân tiến vào từ phía bắc.
Cánh quân tiến vào từ phía bắc do Tôn Thất Thuyết chỉ huy (188). Tuần phủ Sơn Tây sung tham tán thuộc tôn thất ấy, những năm vừa qua nổi bật lên với tầm vóc của một vị tướng trẻ rất tài năng về thao lược. Ông được lệnh đưa hai ngàn (2.000) quân và hai (02) thớt voi vào Thanh Hoá, phối hợp với quân của hộ đốc Thanh Hoá Tôn Thất Tĩnh, bố chính sứ Hoàng Hữu Xứng, án sát sứ Nguyễn Khuyến (nhà thơ tam nguyên Yên Đổ) để đánh dẹp phong trào “sát tả” tại địa phận tỉnh (188). Đến tháng sáu nguyệt lịch này, cuộc nội chiến lương – giáo Nghệ – Tĩnh đã lan mạnh ở huyện Nông Cống xứ Thanh.
“[Tôn Thất] Thuyết được tờ [thông] tư của tỉnh Thanh, lại được tỉnh Nghệ báo là giặc chiếm giữ thành Hà Tĩnh, quan quân ở thứ Quảng Bình [của Lê Bá Thận, Nguyễn Văn Tường] hiện chưa tiến đánh, bèn cùng thống đốc Hoàng Tá Viêm bàn định hiện tình ở quân thứ [Sơn Tây] hơi thư [(…)],chính nên đi đến chỗ cần kíp […] (188)…
Đến khi đến tỉnh Thanh Hoá, [Tôn Thất Thuyết] lại xin lấy Nguyễn Đình Thi sung chức tán lí, Trương Văn Đễ quyền sung tán tương […] (188)…
Khi ấy bọn giặc ở Nghệ An từ xã Hoàng Mai (thuộc huyện Quỳnh Lưu, giáp núi Ngọc Sơn) tràn sang phủ hạt Tĩnh Gia, đánh và quấy nhiễu. (Các sở đóng [quân] để ngăn chận như Hà Niệm thượng, Hà Niệm trung, Du Xuyên, Sơn Châu, Đội Trà, quan quân nguyên đóng ở đấy đều vỡ cả). Quan tỉnh Thanh Hoá đã phái quan quân đem bảy trăm (700) quân chia làm ba đường tiến đánh. [Tôn Thất] Thuyết tức thì đem bọn đề đốc, lãnh binh tiến quân, hợp với [quân] tỉnh Thanh Hoá đánh giáp lại, toàn được thắng trận (chém được đầu giặc, thu được tang vật của giặc rất nhiều, mà toàn quân chỉ có bốn người bị thương nhẹ). [Tôn Thất Thuyết] đuổi thẳng đến địa giới Tuần La (giáp Nghệ An), giặc ấy đều trốn chạy tan. [Tôn Thất Thuyết] rút quân về tỉnh đóng để trấn áp […] … Sau giặc ấy chuyển về hạt Nghệ An, rồi lại gọi nhau tụ họp ở các xã Thiện Kỵ, Hoàng Mai. Đường trạm không thông được. [Tôn Thất] Thuyết bèn mang quân đến địa giới Nghệ An, tiến đánh. Giặc thấy thanh thế quân lừng lẫy (khi ấy quan quân tỉnh Nghệ An hiện đương tiến đánh đến đấy), [chúng] đã chạy trốn trước. [Tôn Thất] Thuyết nhân tiện đến thẳng Trường thi tỉnh Nghệ đóng quân, cùng với tổng thống Nguyễn Chính hội bàn, cùng đánh” (188)
.
Chỉ huy cánh quân từ phía nam tiến ra, khi đến Quảng Bình, Lê Bá Thận vẫn lần chần chưa tiến (187). Theo đường bộ, Nguyễn Văn Tường phóng ngựa cùng quan binh hành quân ra bổ sung. Nhưng quân thứ tiến tới ngang sông Gianh, vẫn chưa tiến thêm được (188).
Bấy giờ, tại Nam Kì, thống đốc thực dân Pháp Krantz rất sốt ruột về bản thương ước chưa được kí kết. Y liền cho chiếc tàu thuỷ Antilope chở linh mục thông ngôn Nguyễn Hữu Cư (Thơ) ra kinh đô Huế, với thư trình gửi vua Tự Đức, mong nhà vua điều động các sứ thần (Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn) vào Gia Định để tiếp tục bàn định và kí kết thương ước (189).
“… Nhưng Tàu Antilope ra đến Huế, thì chánh sứ [Nguyễn Văn Tường] vắng mặt vì [đang bận] tảo thanh phiến loạn ở sông Gianh [“sông phía bắc Đồng Hới” – chú thích của Cadière, chủ biên BAVH.]. Thế là [linh mục Nguyễn Hữu Cư] theo tàu Antilope ra sông Gianh luôn, và nhập với quan quân đi tảo thanh. Nội một ngày, quân cướp tan rã. Các sứ trở vào kinh đô tấu trình lên hoàng thượng [Tự Đức] kết quả chuyến đi [tảo thanh ấy]; và xin lên đường vào Sài Gòn [tiếp tục nhiệm vụ bàn định,] kí kết thương ước với đề đốc Krantz” (189).
“Khi ấy, bọn khâm sai Nguyễn Văn Tường theo [lệnh] dụ [của vua] đi tàu thuỷ nước Tây, đem ngay thuyền công và thuyền đánh cá, chia ra bắn vào đồn giặc ở các xứ Mũi Dao, Đèo Con, Thần Đầu, đốt hết cả, giặc sợ, chạy tan. Thống đốc Lê Bá Thận cùng quân các đạo kế tiếp tiến đến. Giặc nghe đại binh tiến đến, bỏ thành huyện Kỳ Anh trốn đi… […] (190).
[…] Lê Bá Thận lại tâu: “Lần này quan quân đến gần thành đạo [Hà Tĩnh], bọn giặc liền trốn ngay từ trước…”…
Vua dụ bọn Lê Bá Thận rằng: “Trẫm nghe quan quân đi đến đâu, dân trong hạt phần nhiều đem sản vật thổ ngơi khoản tiếp, chẳng những có thẹn vừa đổi, còn có thể đổi được lỗi trước. Tuy đem [chỉ] giỏ cơm bầu nước để rước quân nhà vua, [mà] đối với đời xưa, có kém gì. Hiện nay đường chạy trạm đã thông, quan quân thứ các ngươi phải nên xem cơ hội đánh bắt, cốt cho kẻ có tội phải chịu tội với pháp luật, người bị hiếp phải theo thì chớ trị tội, để kịp rút quân về được sớm”” (190)
.
Cùng với tàu thuỷ Antilope, chánh sứ Nguyễn Văn Tường, phó sứ Nguyễn Tăng Doãn và linh mục thông ngôn Nguyễn Hữu Cư liền vào Gia Định. Trước khi sứ bộ xuống tàu thuỷ, đại thần quản lí Nha Thương bạc Nguyễn Hữu Lập tâu lên vua Tự Đức: “Nay việc Nghệ – Tĩnh đã yên, mà dân giáo tụ họp chia đặt để báo thù, đốt [nhà], giết [người]; giặc biển ở Bắc Kì quấy nhiễu. Tướng nước Pháp từng muốn đánh giúp, để tiện mở thông thương. Xin [thông] tư cho sứ thần [Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn] đem việc ấy bàn với tướng Pháp [để] phân xử, ngõ hầu mong được chóng yên việc”. Vua nghe theo” (191) . Nguyễn Hữu Lập là người làng Trung Cần, tỉnh Nghệ An, cũng đồng huyện Thanh Chương (192) với Trần Tấn, Đặng Như Mai.
Cuộc nội chiến lương – giáo Nam Đàng Ngoài trong thực tế, vẫn chưa nguôi và chưa yên, ngay cả sau khi lãnh tụ Trần Tấn bị mất vì bệnh tại Cam Môn, Hà Tĩnh, lãnh tụ Đặng Như Mai và thủ lĩnh Trần Quang Cán bị quan quân sở tại bắt sống, xử tử hình, cũng trên Quỳ Châu, vùng núi ấy! Cả ba cái chết đều xảy ra vào giữa tháng tám Giáp tuất (1874) (193)! Tuy thế, lòng thù hận cuồng điên của giáo dân vẫn bị kích động không ngừng, đến nỗi vua Tự Đức đành đoạn đến mức bất công là đã ra sắc dụ tịch thu tài sản, định mức tội lây đối với thân thuộc của những lãnh tụ, thủ lĩnh phong trào văn thân “sát tả” Nghệ – Tĩnh (194)! Những tranh chấp, kiện tụng, đòi bồi thường, thậm chí đòi đền mạng, do giáo dân bị kích động ấy, vẫn dai dẳng diễn ra mãi đến nhiều năm sau!

Hết tệp 5 truyện kí thứ 7


Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 7 vào lúc 11 giờ kém 05,
ngày 09.11.2002
(05.10 Nh. ngọ, HB.2).


TRẦN XUÂN AN

(169) NNBCĐH., bài đã dẫn, sđd., 2001, tr. 482 – 485.

(170) NNBCĐH., bài đã dẫn, sđd., 2001, tr. 486.

(171) NNBCĐH., bài đã dẫn, sđd., 2001, tr. 26 – 27.

(172) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 323 – 329; ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 35.

(173) NNBCĐH., bài đã dẫn, sđd., 2001, tr. 485.

(174) NNBCĐH., bài đã dẫn, sđd., 2001, tr. 487.

(175) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 12 – 22. Xem thêm: chú thích (264) ở truyện kí thứ tám của bộ truyện – sử kí – khảo cưú tư liệu này (“hoà” ước Nhật – Mỹ, 1858).

(178) Dẫn theo: NĐNĐDVP. & TH., UB.KHXH. TU. Tp.HCM. xb., 1993, tr. 241 – 244.

(177) ĐNTL.CB., tập 31, sđd., 1974, tr. 22 – 23, 213; ĐNTL.CB., tập 32, sđd., 1975, tr. 205; ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 10.

(178) AOM. Aix, Amiraux 11990, 05.01.1876, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. &TH., UB.KHXH. TU. Tp.HCM. xb., 1993, tr. 76 – 77: chỉ có một tư liệu về vấn đề này. Xem thêm: sđd., ở tr. 88, GSTS. Y. Tsuboi viết: “Về phía Pháp, Dupuis đã nhận được sự yểm trợ khá kín đáo. Giám mục Puginier đã cho hắn vay trước tám ngàn (8.000) quan. Phần đô đốc Dupré, vào tháng bảy (07) năm một tán bảy ba (1873), ông cũng ứng trước cho hắn ba vạn (30.000) đồng bạc qua đại lí ở Sài Gòn của Hiệp hội Ngân hàng Hương Cảng và Thượng Hải”. Ở chú thích cuối trang sách 88 này, Y. Tsuboi lại viện dẫn G. Taboulet và chính Dupuis để đoan chắc thời điểm Puginier cho Dupuis vay là giữa tháng 05 và tháng 10.1873, để dùng cho chuyến chuyên chở hàng cấm thứ hai của y. Về tên giám mục thực dân Puginier này, trong việc câu kết với F. Garnier, GS. Trần Văn Giàu trích thư ngày 08.07.1873 của lãnh sự Pháp tại Quảng Châu để minh chứng: “Không phải hai ngàn (2.000) quân và bốn (04) chiến hạm như ông Sê-nê [Sénez] yêu cầu, mà chỉ cần một chiến hạm, vài pháo thuyền đã nằm sẵn ở Sài Gòn và một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến gửi đến cửa sông Cái là đủ biến Bắc Kì thành thuộc địa. Sáu ngàn (6.000) người công giáo mà giám mục Puy-gi-nhê [Puginier] tự cho có trách nhiệm chiêu mộ, có vài ba người huấn luyện viên, sẽ đủ để mà giữ Bắc Kì…” (CXL., sđd., 2001, tr. 296). Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.), Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 520, viết về sự câu kết giữa “tả đạo” Bắc Kì với “tả đạo” Nghệ – Tĩnh, theo giọng điệu viết sử dưới thời bạo quyền thực dân của ông ta: “Nguyên lúc bấy giờ dân trong nước ta chia làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi xảy ra việc đại uý Françis Garnier lấy Hà Nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ – Tĩnh thấy giáo dân có nhiều người theo giúp ông ấy, thì lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá”. [Về Trần Trọng Kim và cuốn VNSL., chúng tôi đã có nhiều dịp phê phán; ở đây, chúng tôi chỉ ghi nhận lượng thông tin xác thực này].

(179) ĐNTL.CB., tập 32, sđd., 1975, tr. 306.

(180) Lénine: “Thoả hiệp với kẻ thù mà có lợi cho cách mạng, chúng ta vẫn sẵn sàng thoả hiệp”; ý tưởng ấy thể hiện trong việc thoả hiệp với phát-xít Đức ngay sau Cách mạng Tháng mười trước sự tấn công của các nước đế quốc tư sản (hiệp ước Brest – Litovsk, ngày 13.5.1918); xin xem: Ban Tuyên huấn Trung ương, Vụ Huấn học, Lịch sử thế giới, Nxb. Sách Giáo khoa Mác – Lê-nin, 1975, tr. 80 – 82, 94.

(181) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 520; GS. Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử (HYTPK. & STBCNTNVLS.), Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 368 – 369, 452 – 456.

(182) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 35, 37, 39.

(183) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 61.

(184) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 28.

(185) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 40.

(186) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 58.

(187) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 62.

(188) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 68 – 70.

(189) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 487.

(190) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 77 – 78.

(101) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 78.

(192) Quốc sử quán triều Nguyễn và Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), bản dịch: Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Thị Lâm, hiệu đính: Cao Tự Thanh, Nxb. Tp. HCM., 1993, tr. 300.

(193) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 107.

(194) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 104 – 105.


Soạn xong phần chú thích
lúc 09 giờ 25 phút, ngày 14.11.2002
(10.10 Nh. ngọ, HB.2)
.

TRẦN XUÂN AN
HẾT TỆP 5
TRUYỆN KÍ THỨ 7
thuộc tập 2 bộ sách “PCĐT. NVT.”
(từ tr. 93 đến tr. 120)
Xin xem tiếp TỆP 6 truyện kí thứ 7
thuộc tập 2 bộ sách “PCĐT. NVT.”
(từ tr. 121 đến tr. 148)

0 Comments:

Post a Comment

<< Home